Blogroll

Tuesday, April 15, 2014

CÁI PHƯỚC THẬT SỰ VÀ LỚN LAO NHẤT

CÁI PHƯỚC THẬT SỰ 
VÀ LỚN LAO NHẤT


Thế nào là Có Phước thật sự?
Tiền bạc nhiều? Làm quan to gươm dài súng ngắn? Danh vang bốn biển? Sắc đẹp được thiên hạ trầm trồ ngưỡng mộ?
Theo cái nhìn của Đức Phật thì: Tất cả những thứ kể trên đều là nguồn gốc của đau khổ. Là ảo ảnh nhất thời khiến chúng sanh mãi quờ quạng trên bờ mê chấp. 
Cho nên trong một bài giảng, Thầy Thích  Tánh Tuệ đã thấm nhuần lời dạy của đức Thê Tôn, bảo rằng:
“Quan niệm, nhận thức của con người về phước (phúc) và họa hay may và rủi, được và mất, lợi và hại rất chủ quan. Bản chất của phước, họa cũng như mọi điều khác trong thế giới sự vật, hiện tượng từ vật chất cho đến tinh thần đều là duyên sinh, không có thực thể, thực tướng|. 
Để kết luận, Thầy Thích  Tánh Tuệ định nghĩa về cái phước như sau:
Cái phước thật sự, là đủ nhân duyên để hành trì một pháp của Phật và sau đó làm chủ được tâm mình, không bị những thành bại, được mất, hơn thua làm cho bận lòng, làm cho phiền não. 
Robert Poduna Vac, một người đàn ông Mỹ đã gần 70 tuổi, chuyên viên phần mềm cao cấp của một công ty nổi tiếng, hôm nọ du lịch Việt Nam, tình cờ gặp một phụ nữ không còn trẻ nữa, gần 40 tuổi, nghèo khổ, quê mùa, qua một đời chồng với ba người con, hành nghề rửa chén bát trong một hiệu ăn nhỏ ở Saigon. Ông ta bỗng cảm thấy rung động, say mê không cưỡng lại được, đến nỗi theo người phụ nữ ấy về quê nàng sinh sống. Tự nguyện bỏ quốc tịch, tôn giáo và cả nếp sống cố hữu của mình để sống theo Nàng. Hy sinh tất cả vì Nàng. Khi Nàng hỏi tại sao anh lại làm thế, tại sao răng rứa ri tê nọ, thì ông ta chỉ nói đơn giản: “Tại vì Tôi yêu em”.
Không có câu nói nào đầy đủ ý nghĩa cho bằng câu nói ấy.
Và câu chuyện “Người Mỹ trầm lặng trên đồi Buông” trích sau đây, chính là câu trả lời đúng đắn cho chúng tôi khi đi tìm những người có phước lớn lao và có phước thật sự đang sống trên mặt đất gần gũi và không mấy tươi xanh này. Và đây, đối với chúng tôi, là văn bản đáng đọc nhất để biêt về một người có phước trên đời. Trong đó, hãy ghi nhớ câu này:
“Mỗi ngày hai thời, ông mặc áo lam, cầm xâu chuỗi đứng niệm Phật. “A di đà Phật”        
Thế là đủ. Nam mô A Di Đà Phật…                
Robert Poduna Vac là một người đàn ông đầy đủ phước báo. Có phước báo tâm linh thực sự. Ông ta đến Việt Nam chơi, tình cờ hay nhân duyên sắp đặt, ông đã gặp Tình Yêu và may mắn hơn nữa, hi hữu hơn nữa, ông ta đã gặp được Thiện tri thức chân chánh bày cho mình Pháp môn Niệm Phật
Mời các bạn đọc qua văn quý báu ấy:




Người Mỹ trầm lặng trên đồi Buông

Ông Robert đặc biệt thích cho gà, vịt ăn
Robert Poduna Vac hay ngồi bệt trước hiên nhà nhìn ra khu đồi trước mặt, nơi đó có vạt rừng keo và cau do chính ông tạo dựng nên. Dáng ngồi và khuôn mặt bình thản của Robert gợi cho người ta cảm giác ông đã thuộc về nơi này từ lâu lắm…
Lúc tôi đến, ông mặc một chiếc áo lam của người Phật tử, tay cầm tràng hạt, mắt chăm chú nhìn lên tượng Quan Âm toả hào quang điện chấp choá trên tường. Ông đang đắm chìm trong một cảnh giới không thể quấy rầy.
Vì tôi yêu em
Nhà ông ở trên đỉnh đồi Buông, thuộc một xã miền núi hẻo lánh của Quảng Nam, xã Tam Lãnh (Phú Ninh). Tại sao một chuyên gia phần mềm của một công ty lớn ở Washington, lại từ bỏ tất cả để đi làm nông dân ở chốn rừng núi này, thật khó giải thích. Mỗi người nói mỗi kiểu, riêng Nguyễn Bích Giang, cô gái đầu của người phụ nữ sắp là vợ Robert, giải thích hơi lạ: “Kiếp trước ổng nợ mẹ em nên kiếp này ổng phải trả”..
Giang nói: “Ổng từ bỏ quê hương, tiện nghi, tiền bạc, thậm chí bỏ cả đạo gốc (Robert đã cải đạo Thiên Chúa sang đạo Phật) để theo mẹ em, một phụ nữ đã có đời chồng, ba đứa con, nghèo xơ xác làm nghề rửa bát thuê. Ổng sống chung với mẹ ba năm rồi nhưng tối ai ngủ giường nấy, ổng ngủ một mình còn mẹ ngủ với em. Ông hy sinh tất cả vì mẹ mà không đòi hỏi điều gì cả”. Bà Lữ Hà Thy Nhơn (1969), vợ sắp cưới của Robert, cũng thú thật như vậy: “Robert bị tai nạn giao thông dẫn đến đau cột sống, không thể ân ái vợ chồng được…”                  
Bà Nhơn cũng tiết lộ, Robert coi điều đó là một thiệt thòi cho bà, thỉnh thoảng ông đưa bà cả chục ngàn USD và khuyên bà nên đi chơi đâu đó. Nhưng Bà không muốn phụ ông, một người bà coi như đấng cứu nạn của đời mình.   
Robert đã biến cô lọ lem Thy Nhơn nghèo xác xơ thành một “công chúa” ở đất Tam Lãnh này. Ngày trước bà Nhơn chỉ có một túp lều dưới chân đồi, trong đó ngoài cái giường tre không còn gì nữa cả. Robert đã sắm cho gia đình bà từ… cuộn giấy vệ sinh sắm lên. Ông bỏ tiền đổ đất nền lên cao và dựng lên đó một ngôi nhà khang trang thuộc loại nhất nhì của Tam Lãnh bây giờ. Ông chuộc lại toàn bộ đất đai (3ha) mà ngày trước vì túng thiếu mẹ bà đã bán, và dựng lên đó một trang trại với rừng keo, cau xanh ngát, với hàng trăm con gà, vịt, bồ câu… Ba đứa con bà được ông sắm sửa từ cái áo, cái quần, ông đi hỏi vợ cho cậu con trai giữa và chuẩn bị làm đám cưới cho cô con gái đầu của vợ, Nguyễn Bích Giang. Ông làm tất cả những điều đó, với số tiền chi ra bằng gia tài một người giàu có ở Quảng Nam để được gì? “Nhiều khi tôi cũng thắc mắc như vậy, nhưng ông chỉ nói đơn giản, vì tôi yêu em”, bà Nhơn kể.
Âm thanh của sự trầm lặng
Robert về quả đồi này được bốn năm. Cả xã hầu như không ai nói được tiếng Anh (trừ vợ ông), ông không biết tiếng Việt. Vì vậy Robert có lẽ là người ít nói nhất của Tam Lãnh. Mỗi khi khách đến nhà, vợ ông huyên thuyên, còn ông theo thói quen ra ngồi bệt trước hiên nhà, hút thuốc và nhìn ra rừng. Bà Nhơn nói, Robert không thích ồn ào, mỗi khi đi đâu, ông đều khuyên nên chọn chỗ yên tĩnh.
Robert ít nói nhưng không hề lãnh đạm với mọi người. Do nhà có chăn nuôi nên hay thuê phụ nữ chung quanh đến thái chuối cây để làm thức ăn cho chúng.      
. Những ngày đầu thấy bà con ngồi bệt xuống đất làm việc, ông lẳng lặng lấy xe máy chạy 30km đường núi xuống Tam Kỳ (tỉnh lỵ của Quảng Nam) mua một lô ghế nhựa nhỏ đem về cho bà con ngồi. Những nông dân đến làm thuê cho ông, ông không nói chuyện với ai nhưng không hề quên ai. Có lần một người đang làm bị ốm phải nghỉ. Thấy anh ta không đến, ông hỏi vợ rồi vào lấy mấy trăm ngàn đồng đưa vợ bảo đem đến cho anh ta uống thuốc.        
Qua trường mẫu giáo thôn thấy bàn ghế các em xập xệ, ông làm thinh về lấy mấy triệu đồng qua cho trường để sửa chữa. Một lần nghe bà con định tu sửa lại cái miếu thôn, ông đưa tiền cho bà con mua vật liệu và đích thân đi mua sơn về bỏ hai ngày lụi cụi sơn lại miếu. Các cụ bô lão trong thôn sững sờ.
Chốn về của kẻ độc hành
 “Chúng ta về quê em sinh sống đi”, ông đề nghị bà Nhơn khi hai người đang ở Sài Gòn.
“Thế còn công việc của anh, về đó chúng ta lấy gì mà sống?”
“Tôi xin nghỉ việc công ty. Em đừng lo, tôi có điều kiện để em sống một đời không lo lắng”.
“Nhưng anh thích điều gì ở đó?”
“Tôi thích sự tĩnh lặng của nó”.
Ông về hôm trước, hôm sau bà con đã thấy ông ra đồng. Nhà bà Nhơn có mấy sào lúa, từ cày cấy, đổ nước, gặt hái…ông tham gia hết. Với tiền bạc của mình ông dễ dàng trở thành một đại điền chủ của Quảng Nam. Nhưng không, ông chắt chiu từng hạt lúa trên đám ruộng của mình. Những trưa nắng như đổ lửa, bà con thấy ông đầu trần, vận mỗi cái quần đùi, lết bàn chân đi tới đi lui trên sân để đảo lúa cho khô. Ông phơi phóng, gìn giữ từng hạt lúa không phải cho mình vì ông chưa… ăn cơm được.               
Ngày ngày, khi gà trong thôn vừa gáy, ông đã dậy, vác cuốc ra đồi chăm lo rừng keo, rừng cau, dựng cây này lên, bón gốc cho cây kia. Đang làm, sực nhớ điều gì, ông tất tả chạy về. Ông lấy cái ô lúa mà vợ đong sẵn hú gi gà, vịt, bồ câu đến để cho ăn. Có lần chuyên gia phần mềm Robert cho gà, vịt ăn đến suýt chết vì quá nhiều, con nào con nấy diều phồng lên cứng ngắc, đi không nổi. Từ đó, bà Nhơn phải đong khẩu phần gà, vịt cho Robert…
Trang trại cho thu nhập bao nhiêu, Robert không cần biết. Điều Robert cần là được làm công việc của một nông dân. Robert ước ao được chết như một… nông dân, nghĩa là có cái mộ.
Bà Nhơn biết điều này qua một lần Robert tâm sự:
-“Ở bên Mỹ khi chết thiêu xác mang tro rải biển, thấy lạt lẽo cuộc đời quá. Tôi muốn được như người dân quê em, có một ngôi mộ, nhỏ cũng được, nhưng là cái còn lại của mình sau cuộc đời này”.
Một lần Robert về Mỹ, bà Nhơn im lặng kêu người xây một ngôi mộ cho ông bên cạnh cái trang trại với rừng cây, gà vịt mà ông tạo dựng nên. Khi trở lại biết chuyện này ông khóc nức nở vì cảm động: “Em đã toại nguyện một mong muốn lớn nhất của đời tôi. Cả đời này tôi mang ơn em”. Bên ngôi mộ mình, ông tâm sự đã từng có một người vợ, từng tha thiết mong những đứa con. Nhưng vợ ông ba lần mang thai ba lần hỏng vì cô nghiện rượu. Ông ly dị vợ và sau đó bị tai nạn giao thông, chuyện có con coi như khép lại vĩnh viễn. Vì công việc ông sống nhiều nước, nhưng đi đâu ông cũng cô đơn, cũng thấy thiếu vắng. Chỉ có ở đây, ở đồi Buông này, mà ông hiểu theo tinh thần đạo Phật là buông xả tất cả, ông mới thấy lòng mình yên tĩnh. Đêm đêm theo lời khuyên của bà Nhơn, Robert đem máy cassette ra một mình mở băng kinh Phật “cho ấm ngôi nhà mai sau”.            
Ông rất hay đi chùa. Đến đâu ông cũng cúi đầu lạy Phật thành kính. Mỗi ngày hai thời, ông mặc áo lam, cầm xâu chuỗi đứng niệm Phật. “A di đà Phật” là bốn tiếng Việt duy nhất mà ông thuộc và sử dụng hàng ngày.
Robert Poduna Vac vừa xin được Giấy chứng nhận độc thân từ đại sứ quán Mỹ tại Việt Nam. Ông cần thủ tục này để làm hôn lễ với bà Nhơn. Một đám cưới có phần kỳ lạ, đám cưới mẹ lại diễn ra sau đám cưới con (Bích Giang), chú rể 73 tuổi, cô dâu 41 tuổi, đám cưới thì có, động phòng thì không.

***

No comments:

Post a Comment