CHUYỆN
THẬT NHƯ BỊA
Châu Thanh cư sỹ
Bác
Quẹo kể chuyện:
Lần
nọ, tôi lén mở tủ định thuổng một ít tiền để gầy sòng, nhưng không trót lọt.
Sau đó, mụ vợ chì chiết dữ dội chẳng khác chi chà bàn chải lên mặt. Không còn
đường nào khác, tôi lẳng lặng vác khăn gói lên chùa. Ở lì cả nửa tháng.
Lần
khác tôi cùng bốn thằng bạn thuộc dân bợm chính cống chơi tới tám lít đế. Say
quắt cần câu và quậy suốt đêm. Hàng xóm bực mình, gọi cảnh sát. Cuối cùng tôi
và các chiến hữu bị nhốt ba ngày, chỉ được tạm tha khi có chữ kí bảo lãnh của
bà chằng. Tôi giở trò cũ, lên chùa nằm vạ.
Lần
khác nữa, tôi léng phéng tỏ tình với cô láng giềng, hẹn hò rủ nhau tắm biển
Lăng Cô, mụ vợ cùng bầy con gái bắt tại trận, hết lý do cãi chày cãi cối. Quá
xấu hổ, tôi làm mặt giận, đạp xe lại lên chùa.
Đối với tôi, chùa là nơi trú ẩn an toàn
đệ nhất. Nơi mà ta có thể trốn tránh ba cái sự đời oái ăm tréo cẳng ngỗng, lâm
li bi đát, khiến não lòng tím gan tím ruột. Chùa như vòng tay rộng lượng của bà
mẹ luôn luôn dang ra để chào đón những đứa du tử trở về.
Chùa
nghĩa là nơi dung nạp tất cả mọi thành phần mà không tra xét lý lịch (Đây là
nói chuyện ngày xưa!). Ôi, cái bóng từ bi của Đức Phật sao mà dễ chịu, bao dung
đến thế. Về phần tôi, được thầy trụ trì cưng chìu, tôi trở nên phách lối. Ăn no
rồi ngủ. Ngủ suốt ngày, đến bữa cơm có mấy chú gọi dậy. Rồi lại ngủ tiếp. Dường
như ngủ là công việc đáng làm nhất cho một kiếp người quá ư lòng thòng và chộn
rộn.
Nhưng,
ngủ hoài hủy thì đâu có được? Bưa mắt thì thôi chứ.
Tôi
đành thả rong một vòng quanh làng, xem thử gặp con bé nào khơ khớ mà nghễ cho
đỡ rầu. Chậc, gái nhà quê chân đất dù đốt đuốc ban ngày kiếm cũng không ra.
Chúng nó bận rộn việc lúa má, nấu cơm kho cá, chứ đâu có rảnh mà nhơn nhơn để
ta nghía ngắm lai rai? Thất vọng, tôi định kiếm xó quán cóc nào tợp vài xị một
mình mà cảm thán nỗi cô đơn vĩ đại đang bâu xé ruột gan thành những bài thơ bất
hủ cho nền văn học nước nhà. Đang lúc loay hoay lựa chọn một quán rượu nào trữ
tình để nhâm nhi mà sản xuất những tác phẩm lưu truyền hậu thế và ghi vào văn
học sử, thì tôi chợ sờ túi quần té ra mình chẳng mang xu teng nào cả. Lạ nước
lạ cái ai mà cho ký sổ. Thôi đành ca bài tẩu mã. Rút lui cố thủ tại... chùa,
tức là ngủ nữa, hoặc đi ra đi vô, cố tránh đụng đầu mấy chú điệu. Ờ, lỡ va phải
mấy chú điệu ắt là đau điếng vì mấy ổng đâu có tóc?
Để
giết thì giờ thiệt mau lẹ, thần tốc, chớp nhoáng, tôi rủng rỉnh rảo một hai ba
vòng quanh vườn chùa. Tôi bứt hoa bẻ lá, rồi hái mấy trái khế ngọt nhấm nháp
cho đỡ ghiền. Chà, ổi xá lỵ nữa. Nào sa-pô-chê hườm hườm, tôi đều ngắt xuống
nhai rau ráu, cả những trái bứa xanh chua lè chua lét. Khi mà trái cây trong
vườn chùa bị vặt trụi lụi thì tôi thất nghiệp, chả biết kiếm việc gì để quậy
cho qua những khoảng trống rỗng.
Cuối
cùng, tôi phải kiếm dăm ba tạp chí tào lao đọc cho đỡ trống trải. Đại loại như
Phổ thông, Thời nay, Văn, Tuổi xanh, Tuổi xồn xồn, Phụ nữ ngày mai... tôi đều
vơ vội mà ngấu nghiến mặc dù chẳng biết đọc để làm chi. Bởi vì đọc quá lẹ nên
những tòa báo xuất bản không kịp, tôi đành lân la sang tủ kinh sách của thầy
trụ trì. Thật ra, chỉ toàn là kinh sách tặng biếu mà thầy dẫu có thiện tâm
thiện chí cũng không bao giờ ghé mắt nhìn qua, vì những duyên sự cúng kỵ, tiếp
khách, kinh doanh đã chiếm hết thời gian quá ư ít ỏi của thầy.
Như
vậy, tôi đâm ra ghiền xem sách, đọc kinh hồi nào chẳng rõ. Điều khiến tôi kinh
ngạc hết sức là: té ra đạo Phật huyền diệu, uyên áo biết bao! Hèn chi những
người trẻ tuổi sẵn sàng vứt bỏ cả tương lai đầy hứa hẹn mà cạo đầu trọc lóc,
vận nâu sồng, thoát ly gia đình, bồ bịch, bỏ cả tài sản, danh vọng để tìm cầu
chân lý, thông qua những kinh điển còn tàng trữ trong Đại tạng.
Như
cậu bé A-la-đin lạc vào một kho tàng chứa đầy châu báo óng ánh, rực rỡ, với vô
số ngọc ngà, kim cương, hổ phách mã não, san hô, xà cừ... tôi vô cùng thích thú
đến ngỡ ngàng khi bước vào thế giới kinh điển nhà Phật. Nào đại thưa, tiểu
thừa. Nào ba thời tám giáo, tạng, thông, biệt, viên. Nào xe dê, xe hươu, xe
trâu, xe trâu trắng. Nào bát-nhã, nào trung quán, duy thức, hội tam quy nhất.
Thực sự tôi sửng sốt choáng ngợp trước gia tài đồ sộ, uẩn súc, phong phú, và dĩ
nhiên vô cùng quý báu mà Phật tổ để lại cho chúng sanh.
Tôi
ráo riết học chữ Nho một cách say sưa dường như không một sức mạnh nào cưỡng
lại nổi. Từ đó, tôi vô cùng ân hận về sự hoang phí thời gian, sức lực, tuổi
xuân của mình vào những chuyện tào lao dịch bọp trước đây. Sờ lên đầu, tóc lốm
đốm ngả màu bông gòn, tôi lại càng dụng công gắt gao hơn nữa, lúc nào cũng thở
than với chính mình là đã quá muộn, nhât là khi nhìn lên tủ kinh với hơn 100
cuốn Đại tạng như một mảnh đất màu mỡ mà mình chưa khai phá, như một khung trời
rộng lớn mà mình chưa bay đến tận cùng, như một cánh rừng bạt ngàn mà mình chắc
chắn phải lặn lội và dò dẫm một cách hạnh phúc.
Tôi
thực sự ăn ngủ, hít thở, nô đùa và rong chơi cùng những thánh nhân, triết gia,
hiền giả... ngày này qua ngày khác mà không bao giờ biết chán mệt. Lũ bạn bè
nhậu nhẹt cờ bạc, gái ghiếc tự nhiên tránh xa dần. Những lạc thú trần lụy, nhầy
nhụa tự nhiên chẳng còn hấp dẫn nữa. Đúng như đức Khổng tử khi nghiên cứu Kinh
Dịch đến độ ba lần rách gáy sách thì ngài nếm mùi thịt cá cũng không còn cảm
thấy ngon dở.
Như
vậy, ngoài những thời khóa niệm Phật rục rã, niệm chết bỏ, niệm tha thiết khẩn
trương như ngày mai mình lìa bỏ cõi đời lục cục này, tôi chỉ còn một việc duy
nhất là: nghiên cứu Đại tạng và trầm tư về những đề tài tư tưởng mà mình theo
đuổi. Bởi lẽ chưa hề có ai thâm nhập Đại tạng mà không niệm Phật cả.
Các
người học Phật sẽ dễ dàng phát hiện một chân lý rất xưa cũ, và cũng rất vĩ đại,
vĩnh cửu, đó là: mọi con đừờng Phật pháp đều đồng quy một điêm: Niệm Phật, Niệm
công đức Phật, quán niệm tướng hảo của Phật, mà trong đó thì xưng niệm hồng
danh Như Lai là thù thắng đệ nhất. Do vậy, từ một học giả đam mê nghiên cứu,
tham bác Đại tạng, tôi đã trở thành hành giả
niệm Phật tự hồi nào chẳng hay.
Lớp
bằng hữu chí cốt bỗng nhìn tôi như thằng hủi đóng trò. Mụ vợ thầm đánh giá tôi
như thằng điên. Ai nấy đều dò xét tôi với anh mắt nghi ngờ pha lẫn chút ganh
tỵ. Nhưng, cóc cần. Tôi chẳng ngán gì sất, vì thi sỹ Vi-Đề-Hy bảo: “Mặt đất ung thư, phố phường ung hủi, vườn
ruộng ho lao, tâm thần lẫn Sida cả chùa chiền, học đường, cơ quan giáo xứ”.
Cho
nên tôi phải tự cứu mình bằng những hớp cam lộ tự miền tịnh độ. Và càng ngày
tôi càng cảm thấy Liên trì gần gũi, thân thương như những tờ kinh trinh nguyên
thơm phức những hàng chữ thiêng liêng, thánh thiện.
Bây
giờ, chùa không còn là lô-cốt an toàn để tôi trú ẩn nữa, mà dưới mắt tôi, chùa
phải là một thao trường để huấn luyện những vị Phật tương lai, và nhà chùa là
một Đại học đường khiêm tốn, âm thầm đào tạo những người học Phật chân chính,
kiêm hành giả quyết tử cho pháp môn niệm Phật. Chấm Hết.
*
* *
Nhưng,
(thật là đau khổ cùng tột khi phải viết ra những dòng này) niềm lạc quan sâu
sắc và lớn lao của tôi đột nhiên bị vỡ tan như bọt xà bông Sài Gòn gặp phải ánh
nắng mặt trời, lúc tôi bắt gặp một sự thật chua xót đến độ có thể lấy ngọn dao
cau cắt phăng cần cổ: sự thực đó là, tất cả mọi ông thầy tu đều không bao giờ
đọc kinh!
Từ
một chú điệu tập tễnh tán tụng, đến một ông sa di vừa khoác y vàng hay một vị
tỳ kheo lão làng nhiều vai vế, cả đời không bao giờ rớ tới cuốn kinh. Đối với
họ, dường như kinh điển là kẻ thù nguy hiểm đối với cuộc sống. Và họ dị ứng
kinh điển như kẻ trộm cướp dị ứng công an, cảnh sát. Ôi, tội tình làm sao cho
đức bổn sư khi con cháu dòng Thích ngủ quên trên tri kiến Như Lai.
Bị
hụt hẫng chẳng khác nào người lính chiến mải mê xung phong bỗng rơi sụp xuống
hố thẳm toàn là mìn claymore dày đặc, tôi đau điếng người tưởng chừng như trên
cõi đời này không còn thứ gì có thể đau đớn hơn.
Hơn
cả bị thiến. Hơn cả bị vợ bỏ. Hơn người phạm nhân trước vành móng ngựa nghe
“Quý Tòa” tuyên bố bản án tử hình. Tôi mất ăn bỏ ngủ suốt cả tháng ròng, ngày
nào cũng ngồi thừ người nhìn sững vào bức tượng Bổn sư cùng tủ kinh Đại tạng mà
tự hỏi phải chăng Ngài cùng lời dạy của Ngài đang trở nên vô tác dụng trong thế
giới đảo điên, hoang vắng đến cùng cực này?
Tôi
hóa ra kẻ lạc lõng ngay chính trong cái nôi của đạo Phật.
Tôi
nói quá cường điệu chăng?
Không! Bạn hãy nhìn vào chùa X hoặc chùa
Y, chùa Z chẳng hạn. Ngoài những vị lớn tuổi thuộc cha chú quanh năm tíu tít
với việc hành nghề tang mõ, sớ điệp, những vị tuổi trẻ thì đua đòi học Anh văn
như là thứ thời trang bắt mắt nhất của người tu sĩ thời đại. Suốt mấy năm liền,
cả ngày bận bịu với học toán, lý, hóa, sinh và học tiếng Anh. Có mấy khi cầm
cuốn kinh đâu?
Đã
thế, cả hai thời khóa công phu cũng bị phế bỏ luôn, vì lý do rất chi là chính
đáng: bận học, bận thi, bận lấy chứng chỉ vân vân... Bằng cấp và năng lực Anh
ngữ dường như là điều kiện tiến thân ngay cả trong giới xuất gia ư?
Thành
quả của cái học thế gian, là thước đo duy nhất cho sự thể hiện tâm linh chăng?
Cùng chia xẻ những cảm thức nầy thì có
chú Lý ở chùa W. Theo chú Lý, chúng ta rất hiếm khi bắt gặp một người xuất gia
đang cầm cuốn kinh. Đó là một sự thật bi thảm đến độ ứa nước mắt.
Tôi
dám đánh cuộc với chú rằng: rồi sẽ có một ngày đẹp trời nào đó, những người
xuất gia chắc chắn phải có những sinh hoạt liên hệ tới kinh điển nhà Phật.
Chú
Lý cười, nói chắc như đinh đóng cột:
-Không,
anh đừng ảo tưởng mà lộn cổ xuống ao, họ không hề quan tâm gì tới cuốn kinh nào
hết. Ho vô cùng đa năng đa hiệu, tháo vát và xông xáo trong mọi lĩnh vực, ngọai
trừ... nghiên cứu và đọc tụng kinh điển!
Tôi làm quen với thầy chùa W và để ý nếp
sống hàng ngày của quý thầy.
Như
thầy K chẳng hạn. Không bao giờ thức dậy sau bảy giờ sáng. Đi học Anh ngữ đến
trưa. Chiều thì đi tới bước lui trong sân với cặp earphone cập kè bên hai lỗ
tai. Thậm chí lúc ăn cơm, hoặc quở mắng mấy chú điệu, khi nào cũng lè kè... cái
earphone! Khiến tôi tưởng tượng ra hình ảnh của tu sĩ tương lai là một rô-bốt
trọc đầu, trên đỉnh đầu là cần ăng-ten, hai tai choàng cặp earphone, trước ngực
là màn hình vi tính. Tu sĩ rô bốt này sinh hoạt theo những bộ óc diện tử được
điều hành theo chương trình soạn thảo từ trước!
***
***
Thế
mà, buổi trưa nọ trời hanh hanh nắng, tôi bắt gặp thầy K ngủ trưa với một cuốn
kinh dày cộm che trên mặt. Mừng quá. Tôi vội vàng kéo chú Lý đến, hí hửng:
-
Chú thua cuộc rồi, chắc chắn, bữa nay tôi thấy thầy K đọc kinh!
Chú
Lý trừng mắt nhìn tôi như nhìn quái vật từ ngoài vũ trụ xuất hiện:
-
Láo! Không thể tin được!
Tôi
nổi dóa, cãi:
-
Chính mắt tôi nhìn thấy thầy K úp mặt bằng cuốn kinh dày, bìa cứng, gáy mạ vàng
đàng hoàng. Chú không tin ư?
Vừa
nói, tôi nắm lấy tay chú Lý kéo đến cạnh giường thầy K.
Ô
kìa, thầy đang thở đều đặn trong tư thế thoải mái. Và điều quan trọng nhất đối
với tôi là: cuốn kinh dày, bìa cứng, gáy mạ vàng đang úp trên khuôn mặt đờ đẫn
của một thanh niên dư thừa sinh lực. Tôi sung sướng đến độ muốn hét vang, muốn
la thật to với nỗi xúc động đang trào dâng cả buồng tim lá phổi.
Nhưng,
chú Lý vẫn bình tĩnh, đeo cặp kính cận vào, ghé mắt nhìn.
Chú
cười hì hì, rồi đưa tay nâng nhẹ “cuốn kinh” lên dí sát khuôn mặt nhơn nhơn của
tôi.
Tôi
bật ngửa. Tá hỏa tam tinh. Đọc nhanh: KỸ THUẬT TRỒNG CÂY LƯU NIÊN.
Bên
dưới ghi hàng chữ nhỏ hơn: ít vốn, lãi nhiều.
***
Bác
Quẹo vừa kể xong, tác giả (cuốn sách này) hét toáng:
-
Láo toét, làm gì có một vị tỳ kheo như thế
Bác
liền cười:
-
Vâng, tôi chân thành ước mong rằng, câu chuyện vừa rồi chỉ là lời bịa đặt của
một kẻ mộng du giữa ban ngày mà thôi. Khà khà...
Quý
thầy vẫn xem kinh điển là lẽ sống đấy chứ?
Châu Thanh cư sỹ
No comments:
Post a Comment