HỎI
VÀ ĐÁP về Niệm Phật Tịnh Độ
Nguyễn Xuân Chiến dịch từ bản
Pháp ngữ :“Sur
le vrai Bouddhisme de la Terre Pure”,
của
Jean Eracle, Editions du Seuil, 1994
I)-.PHẦN
THỨ NHẤT
Bạn thường
thắc mắc: “Đại Nguyện thứ 18 bảo đảm rằng: nếu kẻ nào luôn luôn nghĩ nhớ đến
Phật, thì sẽ được tái sanh nơi Tịnh-độ”. Và trình bày rõ ràng về Ba Tâm. Tại
sao tác giả Vãng Sanh Luận lại chỉ nói đến một Tâm Chuyên Nhất?
Tôi xin giải đáp như sau: Chỉ vì muốn mọi người dễ hiểu,
nên tác giả bộ Vãng Sanh Luận đã tập hợp Ba Tâm thành một Tâm.
Ba
Tâm ấy là :
1.-
Tâm Chân Thành
2.-
Lòng Tin Thanh Tịnh (Tịnh Tín Tâm)
3.- Ước Muốn tái sanh nơi cõi
nước A Di Đà (Phát
Nguyện Tâm)
Nhờ khảo sát những văn bản Hán
ngữ vốn được sử dụng từ trước, mà người ta thấy tại sao tác giả Vãng Sanh Luận
đã gom Ba Tâm trở nên một Tâm.
a). Trước hết, chúng ta xét về Tâm Chân Thành : Từ ngữ
“chân thành” tức là “chân thật”, “không tạp nhiễm”, hoặc “không pha trộn”. Và
từ ngữ “Tâm” nghĩa là hạt giống, hoặc “cốt lõi” hoặc “nhân tô”.
b). Tiếp theo, xem xét từ ngữ
“Lòng Tin Thanh Tịnh”. Từ ngữ “tin” nghĩa là “chân thật”, “xác thật”, “chân
thành”, “tròn đầy”, “vẹn toàn”, “hoàn tất”, và đồng nghĩa với “năng động”
“nghiêm chỉnh”, “nghiêm túc”, cũng có nghĩa “phân biện”, “xác chứng” (minh
chứng).
Từ ngữ “Thanh Tịnh” có thể diễn dịch là “ước muốn”, “mong
ước”, “tối lạc”, “vui mừng”, “hạnh phúc”.
c). Sau hết, trong cụm từ “mong muốn tái sanh”, thì từ
“mong muốn” đồng nghĩa với “mong ước”, “tự vui mừng” hoặc “tỉnh thức bởi một
điềìu gì”, hoặc nghĩa là “thấy biết”(cảm biết).
Từ ngữ “tái sanh” còn gọi là vãng
sanh, nghĩa là “thực chứng”, “chứng đắc” (thể hiện tâm linh) và “phát triển”
(làm cho phát đạt, phong phú hơn).
Cũng vậy, Tâm Chân Thành là một
tâm hồn có hạt giống chân thành và cốt lõi chân thật. Đó là lý do tại sao, Tâm
Chân Thành là một tâm đã gột rửa mọi bóng đen nghi ngờ.
Lòng Tin Thanh Tịnh, đó là một Tâm hoàn toàn chắc thật và
chân thành, một Tâm vẹn toàn và viên mãn, năng động và nghiêm túc, một Tâm minh
chứng cho sự phân biện. Điều này cắt nghĩa tại sao Lòng Tin Thanh Tịnh là một
tâm đã phá vỡ mạng lưới nghi ngờ.
Ước
muốn tái sanh (hoặc ý nguyện vãng sanh) ấy
là một Tâm mong cầu hạnh phúc, một Tâm muốn đánh thức Tri Kiến. Khi ngọn lửa Tri Kiến
bừng dậy, sẽ đốt cháy tan tành mọi rác rơm nghi ngờ.
Nói thích đáng hơn, cả Ba Tâm đều chân thật như nhau và đều
trừ khử mọi nghi ngờ. Bởi vì Ba Tâm đều rũ bỏ mọi yếu tố nghi ngờ, nên thật ra,
chúng nó chỉ là MỘT TÂM DUY NHẤT. Như tôi vừa giải thích, ý nghĩa của những từ
ngữ nêu trên đều chỉ có thế, mong các bạn hãy nên trầm tư về đề tài này một
cách sâu lắng hơn nữa.
THỂ TÁNH CỦA BA
TÂM
Vả lại, thể tánh của Ba Tâm được
trình bày như sau:
Thứ nhất: TÂM CHÂN THÀNH
Tâm Chân Thành là tâm chân thật
của Giác Ngộ Viên Mãn, nhờ sự thành tựu của công cuộc gieo trồng tất cả công
đức mà người ta chứng đạt được Tâm Chân Thành.
Đức Phật A Di Đà đã ban cho chúng
ta tất cả những công đức chân thật phát xuất từ thực hành xướng niệm danh hiệu
Nam mô A Di Đà Phật, mà sự thực hành này đã trở thành bản chất đồng nhất với Tâm
Chân Thành (nghĩa là trong khi xướng niệm danh hiệu A Di Đà, người ta tức khắc
đạt được Tâm Chân Thành).
Hẳn nhiên, tất cả chúng sanh khắp mười phương đều có một
tâm hồn thối nát, dơ bẩn và hư hỏng, một tâm hồn lầm lạc bởi chứa đựng nhiều
loại thuốc độc khác nhau, phát sinh từ ảo tưởng và dối lừa. Ấy là lý do tại sao
trong thời gian tinh tiến thành lập Bản Nguyện, đấng Toàn Giác thực hành
Bồ-tát-đaọ đã tu tập bằng cách rèn luyện Thân Khẩu Ý được thanh tịnh từng
khoảnh khắc, và tâm của Ngài luôn luôn thuần khiết. Để rồi một điều hiển nhiên
đã xảy ra: tâm thuần khiết và chân thật của đức Toàn Giác đã giao hòa cùng
chúng ta, những sinh linh khốn khổ.
Bồ-tát Pháp Tạng, tiền thân của A
Di Đà đã tu tập chứa nhóm công đức như thế nào để thành tựu Tâm Chân Thành?
Chúng ta hãy đọc lại một trích
đoạn của bản kinh Sức Sống Không Cùng Tận như sau:
“Này
A-nan! Tỳ kheo Pháp Tạng ở trước Phật,
trước chư Thiên, Ma vương, Phạm vương, long thần tám bộ loại, mà phát
Lời Thệ Nguyện Vĩ Đại ấy. Lập nguyện xong, đem Tâm Chuyên Nhất mà tự trang
nghiêm công cuộc tu hành, trong mục tiêu thiết lập cõi Tịnh-độ rộng lớn, vĩ
đại, vượt hẳn các cõi khác.
Luôn
luôn xây dựng, không bao giờ lui sụt, không thay đổi, trong số kiếp không thể
nghĩ bàn, gieo trồng vô lượng đức hạnh của Bồ-tát.
Ngài
không sanh khởi ý niệm tham dục, ý niệm sân hận, ý niệm độc hại. Không dấy lên
tư tưởng tham dục, tư tưởng sân hận, tư tưởng độc hại. Không đắm nhiễm sắc,
thanh, hương, vị, xúc, pháp.
Ngài
có sức kham nhẫn bền bỉ, không bao giờ bị biến chất, chẳng có nỗi khổ đau nào
làm cho Ngài lay chuyển. Ít muốn, biết đủ, không nhiễm ô bởi bất mãn, sỉ nhục. Luôn luôn giữ vững chánh định,
nên lòng luôn khoan hòa và trí tuệ không bị chướng ngại, không thốt ra lời nói
phù phiếm và dối gạt. Sắc mặt dịu dàng vui vẻ, lời nói thân thiện dễ mến. Ai có
thắc mắc điều chi, đều được Ngài đối đáp với thái độ khiêm cung. ( ... )
…Nói năng như
chánh pháp, dũng mãnh tinh tiến, không bao giờ mỏi nhọc nhàm chán trong việc thực hiện chí nguyện cứu vớt chúng sanh. Luôn
luôn mong cầu giáo pháp cao thượng và tinh sạch, ban bố ân huệ cho tất cả mọi
loài chúng sanh, cung kính Ba Ngôi Tam Bảo, phụng thờ các bậc sư trưởng, thiện
hữu tri thức. Tự trang nghiêm bản thân bằng vẻ đẹp rực rỡ của công phu tu tập
phước tuệ, và ban tặng diệu lực chánh pháp cho mọi chúng sanh để mang lại giải
thoát hoàn toàn”.
Qua lời dạy của Phật và Bồ-tát,
giờ đây bạn đã thấy được rằng : Tâm Chân Thành chẳng khác gì với Tâm Bao La
Chân Thành và Thuần Khiết của đấng Toàn Giác.
Vâng,
chính Tâm ấy được gọi là Tâm Chân Thật.
Tâm
Chân Thành cũng chính là Tâm Đại Bi.
Bạn đã
hiểu tại sao đó là một tâm đã gột sạch mọi nghi ngờ!
Thứ hai: LÒNG TIN THANH TỊNH
Lòng
Tin thanh Tịnh cũng còn gọi là Tâm Chân Thật, vì nó có cùng bản chất như nhau.
Nói đúng hơn, tất cả chúng ta,
những sinh vật hèn mọn bị trói buộc bởi tham dục, những hiện hữu tầm thường và
ngu dốt, chúng ta không hề có ý niệm thanh khiết về lòng tin, chúng ta không
hề có tư tưởng chân thật về lòng tin: do đó, chúng ta rất khó khăn trong việc
gieo trồng những công đức chân thật. Tự thân chúng ta, chúng ta không thể gặt
hái Lòng Tin thanh tịnh và thuần khiết.
Nói như sự nhận định của một luận sư Tịnh-độ, thì những tư
tưởng đam mê tự trổi dậy liên miên trong chúng ta, và khiến những tư tưởng cao
thượng trở nên dơ bẩn. Ngọn lửa hừng hực của giận dữ và thù hận, đã đốt cháy
tan tành vô số tài sản tâm linh quý báu ở ngay trong chúng ta...
Ngay cả khi chúng ta thực hiện những nỗ lực gắt gao về thân
xác và cả tinh thần, suốt hai mươi bốn giờ mỗi ngày, để thúc đẩy bản thân tinh
tiến hơn và can thiệp mạnh mẽ hơn, chẳng khác chi chúng ta đang đội những cục
than rực lửa ở trên đỉnh đầu thì chúng ta không thể nào xuất sanh những thiện
hạnh trộn lẫn với những thứ công phu tu tập tào lao phù phiếm và dối lừa giả
giả thiệt thiệt: chúng ta không thể nào thành tựu những đức hạnh tuyệt đối chân
thật. Vậy, nếu chúng ta đem những thiện hạnh trộn lẫn độc tố tham dục ấy để hồi hướng
vào thành quả vãng sanh Tịnh-độ, thì rốt cuộc chúng ta cũng không thể đặt đôi chân lấm lem bụi bặm trần tục của
mình lên miền đất chói lọi, rực rỡ ánh vàng của đức Phật A Di Đà. Thành
quả vãng sanh của chúng ta, chỉ có thể phát
xuất từ công phu tu tập của đức A Di Đà, vì ngay tự bản thân Ngài, khi hiến
mình tu tập Bồ-tát đạo, rèn luyện công hạnh từng giây từng phút không biếng
trễ, thành tựu ba nghiệp thân, miệng, ý thanh tịnh do
một tâm thức tuyệt đối chân thật, không trộn lẫn với bóng tối dày dặc của nghi
ngờ. Mà quả thật, lòng tin thanh tịnh, thuần khiết và chân thật của A Di Đà đã
lan truyền cảm ứng đến chúng ta, tất cả chúng ta, những sinh linh khổ đau.
Đoạn
kinh nói về sự hoàn thành Bản Nguyện đã ghi:
“Tất
cả chúng sanh nếu có ai chợt nghe danh hiệu A Di Đà thoáng qua thính giác, liền
phát khởi một ý niệm tin cậy mà reo mừng, hớn hở…”
Qua lời
dạy của Phật, bạn thấy rõ rằng, cái Tâm mà chúng ta đã nói ở phần 2, chỉ là
Lòng Tin Thanh Tịnh, Thuần Khiết và Chân Thật, thành tựu do Bản Nguyện. Đúng
hơn, cái mà người ta gọi là “Lòng Tin” chính là Đại Bi Tâm.
Khi
lòng tin được đồng nhất ý nghĩa với Đại Bi Tâm, bạn đã hiểu lý do tại sao nó là
một tâm đã thoát ra khỏi mạng lưới nghi ngờ!
Thứ ba ; ƯỚC MUỐN VÃNG SANH
Cũng
thế, lòng tin thuần khiết và chân thật ấy là bản chất của ước muốn vãng sanh.
Nói
đúng ra, chúng ta, đám đông của những
sinh linh khốn khổ, những hiện hữu tầm thường, dưới cơn lốc dữ dội của tham
dục, quay cuồng, từ vô số tỷ tỷ năm xa xăm, trong bánh xe Sanh Tử, chúng ta
không thể nào có được một tâm thức thuần khiết như vậy để hồi hướng công đức -
chúng ta cũng không thể nào có được một tâm thức chân thật như thế để hồi hướng
công đức.
Chính vì lý do ấy, mà A Di Đà khi
tinh tiến thiết lập Bản Nguyện, hiến mình cho việc thực hành Bồ-tát đạo, đã tu
tập Thân Khẩu Ý thanh tịnh trong từng phút giây, chẳng lúc nào mà quên hồi
hướng công đức với mục tiêu trước hết là chứng đạt Đại Bi Tâm tròn đầy. Mà thật
sự cái tâm thuần khiết và chân thật của A Di Đà, hoàn toàn mong muốn đưa chúng
ta tái sanh nơi cõi miền trong sạch, đã cảm ứng đến chúng ta, tất cả chúng ta,
những chúng sanh đau khổ.
Xin trích dẫn đoạn kinh nói về sự
hoàn thành Bản Nguyện:
“Nếu có những chúng sanh nhờ đem Tâm
Chân Thành mà hồi hướng để mong ước vãng sanh, thì liền được vãng sanh và an
trú trong trạng thái không còn bị lui sụt”(cảnh giới bất thối chuyển)
Qua lời
dạy của Phật, bạn thấy rõ rằng, cái Tâm mà chúng ta bàn đến nơi phần 3, chỉ là
sức mạnh phát sinh từ tiếng gọi giục giã của A Di Đà đang thống thiết cất lên
để nhắn nhủ chúng ta bằng Đại Bi. Đúng hơn, đó là tâm tương tự như Đại Bi, thảy
đều mong muốn chúng ta vãng sanh Cõi Sạch, được gọi là “Ba Tâm Hồi Hướng”.
Và bởi
vì ba tâm đều hồi hướng từ Đại Bi, thảy đều chân thật, thuần khiết, không bị
tạp nhiễm, không bị pha trộn bởi bóng đen nghi ngờ : ấy là lý do tại sao ba tâm
ấy hợp thành Tâm Chuyên Nhất.
Bạn nên
nương tựa vào thí dụ “Con Đường An Toàn” của
tổ sư Thiện Đạo :
Về phía
bờ Tây, có một người cất tiếng gọi và bảo rằng: hãy đến thẳng nơi đây với Tâm
Chuyên Nhất và Tư Tưởng Chân Chánh, Ta sẽ che chở ngươi : đừng sợ hãi vì những
hiểm nguy của nước và lửa!
Giữa nước và lửa, có một lối đi
an toàn. Nghĩa là, chặng giữa những dục vọng của khát ái và hận thù, chúng ta
có thể phát sinh Tâm Thuần Khiết mong ước vãng sanh Cõi Sạch.
Với sự
ngưỡng mộ, khi nhận lãnh sự khích lệ của đức Phật Thích Ca và tiếng gọi thúc
giục của A Di Đà, chúng ta chẳng còn quan tâm chi đến hai dòng sông lửa và
nước, bởi chúng ta sử dụng lối đi an toàn này bằng sức mạnh Bản Nguyện.
Giờ đây, chúng ta biết rằng, nếu
chúng ta có khả năng khai sinh ngay nơi bản thân một Tâm Thuần Khiết được
biểu hiện bằng những Đại Nguyện, thì thành quả này không phải là do đức hạnh
của chính chúng ta, hoặc do nương cậy vào Tự Lực (những khả năng tự phát) của
chúng ta. Mà ấy là do công đức của Tâm được hồi hướng từ Đại Bi. Do đó, tôi bảo
rằng: Tâm Thuần Khiết được biểu hiện bởi những Đại Nguyện.
TÂM CHUYÊN NHẤT
VÀ TƯ TƯỞNG CHÂN CHÁNH
Thật vậy, có Tâm Chuyên Nhất và
có Tư tưởng Chân Chánh.
Tư Tưởng Chân Chánh, ấy là xướng đọc Danh Hiệu, và xướng
đọc Danh Hiệu ấy là Niệm Phật.
(La Pensée Correct, c’est la
récitation du Nom; et la récitation du
Nom, c’est le Nemboutsou).
Tâm Chuyên Nhất ấy là Tâm Thẳm
Sâu (Thâm Tâm). Tâm Thẳm Sâu chính là Lòng Tin Sâu Thẳm và Không Thối Chuyển.
Lòng
Tin Sâu Thẳm và Không Thối Chuyển, ấy là Tâm Chân Thật.
Tâm
Chân Thật là Tâm bền chắc như kim cương.
Tâm bền
chắc như kim cương là Tâm Tối Thắng, không còn gì có thể vượt trội lên trên
được.
Tâm Tối
Thắng là Tâm Giản Dị. Tâm Giản Dị bao giờ cũng chỉ có một mặt biểu hiện.
Tâm
Giản Dị chỉ có một mặt biểu hiện, ấy là Tâm Hoàn Toàn Hoan Lạc, Tâm được trang
nghiêm bởi Niềm Vui Lớn. Tâm như vậy, có thể nào lại khác biệt với Ba Tâm ?
Tâm như
vậy là luôn luôn phù hợp với ba tâm. Tâm như vậy, đó là ước vọng lớn lao hướng
đến giác ngộ. Và ước vọng lớn lao hướng tới giác ngộ, đó là Lòng Tin Chân Thật.
Lòng
Tin Chân Thật, ấy là thệ nguyện thành Phật. Thệ nguyện thành Phật là thệ nguyện
cứu độ chúng sanh. Thệ nguyện cứu độ chúng sanh, ấy là tư tưởng che chở, và đùm
bọc tất cả chúng sanh với mục tiêu làm cho chúng sanh được tái sanh nơi cõi
nước Thanh bình và Hạnh Phúc. Một tâm
như vậy, đó là một tâm hoàn toàn bình đẳng.
Một Tâm như vậy, đó là tâm đồng
nhất với Đại Bi. Ấy là tâm thành Phật, ấy
là tâm làm Phật. (thị tâm thành Phật,
thị tâm tác Phật). Đó là cái mà người ta gọi sự thực hành bằng cách hòa
điệu cùng Chân Lý. Rốt cuộc, nó tương ưng với Tâm của chính đức Phật.
Lời
giải đáp xin chấm dứt ở chỗ ba tâm được kết hợp thành Tâm Chuyên Nhất, kết quả
của việc xướng đọc danh hiệu Nam mô
A Di Đà Phật thường xuyên, liên tục.
II.
- PHẦN THỨ HAI
Bạn
cũng thắc mắc rằng: Có một sự khác biệt giữa ba Tâm được xác định bởi kinh Sức
Sống Không Cùng Tận (kinh Vô Lượng Thọ) như là: Tâm Chân Thành, Lòng Tin Thanh tịnh, và Ước Muốn Tái Sanh - và ba Tâm được nêu lên bởi kinh “Quán Tưởng
Đức Phật Có Đời Sống Không Cùng Tận và Cảnh Giới Kỳ Diệu của Ngài” (kinh Quán
Vô Lượng Thọ) như là : Tâm Chân Thành và
Xác Thật, Tâm Sâu Thẳm, và Tâm Hồi Hướng Ước Nguyện Tái Sanh.
Thân
Loan tôi xin giải đáp như sau:
“Từ
những góc cạnh khác nhau, mà ba Tâm được trích dẫn từ hai bộ kinh nêu trên,
thật ra chỉ có Một, hợp thành Một. Tại
sao nói như vậy? Ta phải căn cứ vào luận giải của Ngài tổ sư Thiện Đạo:
Về thể
tánh của Tâm Chân Thành và Xác Thật, ngài Thiện Đạo nói:
Từ ngữ “chân thành” tức là “thật
sự” - từ ngữ “xác thật” có nghĩa là “có
thật” “thật tế”.
Về thể tánh của lòng tin đặt nền tảng trên lời xác chứng
của Phật, và trên công phu Niệm Phật, Thiện Đạo nói: “Thường xuyên nghĩ nhớ đến
danh hiệu A Di Đà với Tâm Chuyên Nhất,
điều ấy được gọi là “Hành động đúng đắn để trở thành thành phần trong nhóm
người tu tập thiền định chân chánh của đạo Phật” (chánh định tụ).
Về thể
tánh của Tâm Sâu Thẳm, ngài nói :
“Lòng Tin Sâu Thẳm ấy là niềm tin chân thật”.
Về thể
tánh của Tâm Hồi Hướng Ước Nguyện Vãng Sanh”, ngài nói:
“Do tác dụng của Lòng Tin Sâu
Thẳm, mà Tâm Hồi Hướng Vãng Sanh sẽ được bền chắc như kim cương”.
Giờ đây, chúng ta thấy rõ rằng:
Tâm Chuyên Nhất ấy là Lòng Tin, và Tư Tưởng Kiên Định ấy là Pháp Thực Hành Đúng
Đắn.
Như
thế, trong Tâm Chuyên Nhất đồng thời bao gồm luôn cả Tâm Chân Thành và Tâm Hồi
Hướng Công Đức.
Kết
thúc giải đáp của câu hỏi thứ hai.
III.- PHẦN THỨ BA
Câu hỏi
cuối cùng của bạn :
Hai bộ
kinh kia đều nói đến Ba Tâm, thế thì tại sao kinh A Di Đà lại khẳng định: ”chỉ
cần nắm giữ vững chắc Danh Hiệu”? (chấp trì danh hiệu). Có sự khác biệt nào
chăng?
Giải đáp :
Kinh A Di Đà khẳng định rằng:”phải
nắm giữ vững chắc Danh Hiệu A Di Đà”, thì chữ “vững chắc” xác quyết rằng tư
tưởng phải được ổn định và không suy nghĩ vớ vẩn,xao động. Về phần động-từ “nắm
giữ” nghĩa là: không được buông thả Danh Hiệu mà cũng không được để Danh
Hiệu chạy vuột khỏi tâm ý.
Vì lý
do ấy, mà kinh nói thêm rằng: ”không xao động” (bất loạn). Khi kinh nói “nắm
giữ vững chắc” tức Chấp Trì, thì cũng đã xác nhận :”với Tâm Chuyên Nhất” tức Nhất Tâm. Mà
Tâm Chuyên Nhất chính là Lòng Tin.
Vậy, cụm từ “nắm giữ vững chắc
Danh Hiệu” và đoạn văn trung thực “với Tâm Chuyên Nhất và không xao động”(mà
bản chữ Hán chép là: Chấp Trì Danh Hiệu và Nhất Tâm Bất Loạn) - dĩ nhiên chúng ta phải tin như thế nhưng cũng phải
trầm tư quán sát sâu xa các ý nghĩa của chúng với tấm lòng trân trọng.
Trong thế gian ô nhiễm này, chúng
sanh đều có khuynh hướng lầm lạc và ảo tưởng, do đó ngài Thiên Thân bồ-tát
(người đã viết Vãng Sanh Luận) và chư vị tổ sư Tịnh-độ, tất cả đều minh chứng
con đường giải thoát thực sự, trong việc trình bày đạo Phật chân chánh của pháp môn Tịnh-độ.
Tư tưởng vĩ đại của ba bản kinh Tịnh-độ đều vừa ẩn mật vừa
rõ ràng, đã tuyên bố dứt khoát: chỉ có Tâm Chuyên Nhất mới đủ khả năng đưa
chúng ta bước vào Cõi Miền Trong Sạch.
Các bản
kinh thường bắt đầu bằng cụm từ: “Tôi nghe như vầy…”, và tác giả Vãng Sanh Luận
cũng khởi sự viết bộ luận thư với lời tuyên bố:”Tôi, với Tâm Chuyên Nhất…” Phát biểu như thế ngài Thiên Thân quyết chứng
minh rằng lời tuyên bố của mình có giá trị tương tự như “Tôi nghe như vầy…”
Vả lại, giờ đây hãy đưa ra ánh
sáng vấn đề mà các tổ sư Tịnh-độ cũng muốn chúng ta được thông suốt rốt ráo.
Ngài nói:
“Từ ngữ
“tùy theo ước muốn” được sử dụng bởi các bản kinh Tịnh-độ đã khoác hai ý nghĩa:
- Nếu
từ ngữ ấy muốn nói: “tùy theo ước muốn của chúng sanh” thì điều ấy có nghĩa
rằng: tất cả chúng sanh đều sẽ được cứu độ đúng y như những tư tưởng mong cầu
của họ phát xuất từ tâm niệm.
Nếu từ ngữ ấy muốn nói:”tùy thuộc
vào ý nguyện của A Di Đà” thì điều ấy có nghĩa là “với tri kiến nhiều đến vô số
vô lượng vô biên, đức A Đi Đà hoàn toàn hiểu rõ tất cả chúng sanh: bằng phương
tiện của sáu thứ thần thông và quyền lực siêu nhiên của đấng Pháp Vương, Ngài
sẽ đột ngột xuất hiện trước họ đúng vào thời điểm khát khao của họ, với thân
thể bằng xương bằng thịt và với tinh thần có thể cảm nhận được, trong diệu dụng của Thân, Khẩu, Ý, Ngài sẽ mở
cho họ những cánh cửa tri kiến giải thoát.
Rất
tiếc là hai cách diễn dịch trên, đều không mang lại một kết quả khả quan nào
cả.
Ngài
Thiện Đạo còn nói:
“Hỡi các bậc thiện hữu muốn vãng sanh
nơi cõi Tịnh-độ, ta kính cẩn thưa cùng chư vị rằng: Hãy chấp nhận ý tưởng này:
tất cả các ngươi đều hoàn toàn bất lực trước ngưỡng cửa giải thoát, nhưng đức
Phật Thích Ca Mâu Ni tựa như một người cha thương mến thật sự, hoặc như một
người mẹ dịu dàng trìu mến, Ngài có thể đánh thức trong các ngươi một Lòng Tin
Tối Thắng bằng nhiều phương thức khác nhau.”
Thân Loan tôi thấy rõ rằng, nhờ
Đại Bi của hai đức Như Lai (A Di Đà và Thích Ca Mâu Ni) mà tôi đã nhận được Tâm
Chuyên Nhất, đồng thời đó cũng là nhân tố cốt tủy của Phật-tánh. Những ai có
được Tâm Chuyên Nhất như vậy, quả là những chúng sanh hiếm có làm sao, phi
thường biết bao!
Đúng ra, đối với chúng ta, những
con người si mê ám chướng đang bị cuốn
phăng theo dòng tham dục và đối với tất cả sinh linh đang trôi lăn vô vọng dưới
bánh xe Sống Chết, thì dường như không bao giờ tự đánh thức mình bằng Lòng Tin.
Đây là lý do tại sao Phật dạy rõ trong kinh:
***
“Có người nào nghe kinh này mà chấp nhận với
lòng tin thanh tịnh, đó là đã thực hiện một việc khó nhất trong tất cả mọi điều
khó khăn ở trên thế gian: chẳng còn gì có thể sánh kịp với sự việc khó khăn
này.
Phật
cũng nói: “Đối với tất cả chúng sanh,
giáo lý này quả thật là khó chấp nhận, khó tin tưởng đến tột độ.”
Thật
vậy, giờ đây tôi biết rằng, đức Như Lai xuất hiện nơi thế gian chỉ với mục tiêu
tối thượng, đó là mở bày những ân huệ vĩ đại được lưu bố từ Thệ Nguyện Đại Bi.
Đây mới thực sự là giáo lý trung thực của đấng Toàn Giác, tôi biết như vậy.
Nếu mãi kiếm tìm ý nghĩa đích
thực trong lời dạy của tất cả chư Phật, tôi thấy rằng: chư Phật thị hiện nơi thế gian từ quá khứ, hiện tại, vị lai - đều chỉ với mục
tiêu xác đáng ban đầu là giáo hóa chúng sanh bằng Bản Nguyện Siêu Việt Tư Duy
và Mô Tả của A Di Đà, cuối cùng, những chúng sanh tầm thường luôn bị đắm nhiễm
bởi tham dục, nhờ hồi hướng công đức vào năng lực Bản Nguyện, nghe được những
phẩm chất siêu việt tư duy và mô tả của A Di Đà, cảm nhận được Lòng Tin Tối
Thắng và tất nhiên, đắc Đại Hoan Lạc,
đạt được trạng thái bất thối chuyển của Tâm, và chẳng cần phải diệt trừ tham dục mà vẫn nhanh chóng chứng ngộ
Đại Niết Bàn. (sans détruire les passions, réaliser promptement le Grand
Nirvana).
SƯU
TẬP NHỮNG NỘI QUÁN
VỀ
PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ
Bản
thảo do Shaku Rennyo (Liên Như) sao chép lại, xin được chấm dứt ở nơi đây.
Ký tên : Shaku
Rennyo
ngày
thứ 12, tháng thứ 5, năm thứ 6
kỷ
nguyên Eikyo, 1445 (năm Con Cọp)./.
No comments:
Post a Comment