THÂN
LOAN THÁNH NHÂN cuộc đời và tác phẩm
(Chân tông Nhật bản và vị tổ sư khai sáng)
Jean
Eracle - Nguyễn Xuân Chiến dịch
Trong lịch sử Phật-giáo Nhật-bản,
Thân Loan thánh nhân hiển nhiên là một nhân vật phi thường và được sùng kính
nhất. Mặc dù Ngài thường tự gọi mình là “gã đầu trọc ngốc nghếch” với giọng
điệu khiêm tốn pha lẫn chút ít hài hước.
Ngài hạ sinh tại Hino, gần thủ
phủ Kyoto vào
năm 1173. Xuất thân từ một gia đình danh giá thuộc giai cấp quý tộc vào thời
ấy: dòng họ Fujiwara, ngài có thể trở thành một quan viên cao cấp trong triều
đinh Nhật-bản. Ngay từ thuở ấu thơ, ngài đã biểu lộ một thiên hướng mạnh mẽ về
những thực tại siêu việt, đồng thời cũng luôn luôn bày tỏ những cảm quan bén
nhạy đối với bản chất vô thường tạm bợ của tất cả sự vật chung quanh. Năm lên
chín tuổi, ngài trở thành đứa trẻ mồ côi cha lẫn mẹ, và được người thúc phụ đem
về cưu mang.
Thúc phụ của ngài đã nhìn thấy
những biểu hiện khác thường của cháu mình, nên
đã quyết định cho phép ngài xuất
gia dưới sự chăm sóc của thượng tọa Jien. (Từ
Trấn). Pháp danh của ngài khi mới bước vào chùa là Hanen.
Suốt hai mươi năm tu học trên núi
Tỷ-duệ (Hiéi), Thân Loan tiếp nhận một sự rèn luyện nghiêm ngặt về giáo thuyết
lẫn thực hành, trong một không gian bao la của những văn bản Phật-giáo, những
tác phẩm kinh viện, cũng như bước vào những cánh cửa bí mật của tông phái Thiên
Thai đầy quyền lực. Tông phái này được đại sư Dengyô (Đạo Nguyên) truyền thừa
từ Trung-hoa và phát triển tại Nhật-bản vào ba thế kỷ trước.
Ngài nỗ lực hướng dẫn bản thân
theo phương thức tu tập Sáu Ba-la-mật của Bồ-tát đạo như bố thí, trì giới, nhẫn
nhục, tinh tiến, thiền định và trí tuệ, y như lề lối thông thường của các tu sỹ
thời ấy. Ngài tự khép mình khổ hạnh, tích lũy công đức và tri thức, để một ngày
nào đó sẽ thu đạt sự chứng ngộ tối thượng của chư Phật. Ngài tự thể nghiệm biết
bao ngõ ngách u tối của vô minh, biết bao độc tố của tham dục và giận dữ thường
tác động đến thân tâm ngài một cách liên tục.
Ngài cũng tự hiến mình cho vô số
phương thức tu tập khác, nhưng vẫn không hề gặt hái chút ít thanh bình tâm
linh. Vô vọng.
Năm hai mươi chín tuổi, ngài từ
bỏ tu viện trên núi Tỷ-duệ, và du hành đến Yoshimitsu nơi mà Thượng nhân Genku
đang hóa đạo dưới danh hiệu Pháp Nhiên (Honen Shônin).
Pháp Nhiên xuất hiện như là một
con người khoan hòa nhân hậu, mặc dù ngài vốn là vị đạo sư vô cùng thông thái.
Ngài bỏ công đến hơn năm lần để nghiền ngẫm kho tàng bao la của tam tạng kinh
điển Phật học.
Được đào tạo từ nền triết học và
kỹ thuật tâm linh của phái Thiên Thai, ngài đã khám phá và phát hiện ra một
trong những phương thức tu tập của tông phái này, đó là Xưng Niệm Phật. Nghĩa
là, chỉ cần xướng lên danh hiệu đức Phật A Di Đà với lòng tin trọn vẹn, cũng đủ
đưa hết thảy chúng sanh giải thoát khổ đau. Và tất nhiên, trong lúc thực hành
niệm Phật thì người ta phải kiên trì loại bỏ tất cả những đường lối thực hành
khác, dù là của đạo Phật. Đối với những người niệm Phật, thì tất cả pháp môn
khác đều trở nên vô dụng, không còn ích lợi thiết thực nữa.
Sau đó, Pháp Nhiên dứt khoát bước
ra khỏi tu viện của phái Thiên Thai, lui về ẩn dật tại một căn lều cỏ nơi thôn
dã hẻo lánh cạnh Kurodani, gần thành phố Yoshimitsu. Cuối cùng, ngài dành trọn
vẹn cuộc đời mình cho pháp môn niệm Phật vô cùng giản dị này, rồi truyền dạy
cho rất đông đệ tử đến gõ cửa hỏi đạo.
Chàng trai trẻ Thân Loan tức khắc
trở thành người học trò khiêm cung và siêng năng của Thầy. Pháp Nhiên đặc biệt
gởi gắm niềm tin nơi người học trò có khả năng tiếp nối sự nghiệp tâm linh của
mình. Ngài cho phép Thân Loan được noi theo mẫu mực cùng nhân cách của
mình, cũng như chỉ dạy Thân Loan nghiên cứu tác phẩm quan trọng và đắc ý nhất,
đó là :”Tuyển tập đặc biệt về Niệm Phật, căn cứ vào Bản Nguyện A Di Đà”
(Senjaku Hongan Nemboutsou Shu) do chính
Pháp Nhiên sáng tác (Tuyển Trạch Bản Nguyện Niệm Phật Tập).
Giữa những người anh em cùng học,
Thân Loan hiển nhiên là người thấu suốt lời dạy của Thầy nhất. Một hôm, Thân
Loan nói với các vị huynh đệ đồng môn rằng:
“Đức tin của tôi và
đức tin của Thầy đều hoàn toàn giống y như nhau!”
Rất phẫn nộ vì một thái độ có vẻ
tự phụ như vậy, các huynh đệ đem lời phát biểu ấy trình lên sư phụ Pháp Nhiên,
để chờ xem ngài giải quyết thế nào?
Nhưng, Thượng nhân Pháp Nhiên trả
lời giản dị như sau:
“Đức tin của ta là do A Di Đà ban cho, niềm tin của Thân
Loan cũng do A Di Đà ban cho. Vậy, có gì khác nhau đâu?
Nếu chúng ta có được một đức tin do những nỗ lực cá nhân
thì chúng ta đã thiết lập một niềm tin khác, tùy thuộc vào những công đức tu
hành riêng tư của mình. Nhưng thật ra, đức tin của chúng ta được phát xuất từ
tấm lòng Đại Bi của Phật, qua sự xác lập bởi Bản Nguyện A Di Đà, do đó đức tin
ấy chắc chắn giống hệt như nhau...”
Vừa lúc ấy, sư phụ Pháp Nhiên cho
phép Thân Loan lấy vợ. Chủ ý của ngài muốn chứng tỏ rằng, bất cứ kẻ nào có một
đức tin bền chắc như kim cương, thì kẻ ấy không cần thiết phải thực hiện nếp
sống từ bỏ gia đình, cũng chẳng cần giữ mình trinh bạch, khổ hạnh, mà vẫn được
tái sanh nơi Cõi Sạch của đức Phật A Di Đà.
Sau đây là chủ trương của Ngài
Pháp Nhiên:
“Một con người rất đỗi bình thường, dù đàn ông hay phụ nữ,
trẻ hay già, thông thái hay ngu độn, đạo đức hay tội lỗi, nếu đem lòng tin chân
thật mà xưng niệm danh hiệu A Di Đà thì thảy đều được cứu độ triệt để bởi năng
lực vượt lên trên mọi tư duy và mô tả của Bản Nguyện. Song song với việc thực
hành niệm Phật, người ta chỉ cần hướng dẫn cuộc sống thường ngày bằng cách tuân
thủ lụat pháp xã hội hoặc lề thói của quốc gia mà mình đang sinh sống.
Nếu người ta kiên trì xưng niệm Phật để thành tựu lòng tin
chuyên nhất trong sự tuyên dương Bản Nguyện A Di Đà, thì người ta
chắc hẳn cảm nhận nội tâm được chuyển hóa, và cuộc sống được biến đổi - những
khuynh hướng bi mẫn và giác ngộ, sẽ thay thế tất cả những thói hư tật xấu mà
mình từng đeo đẳng trong nhiều kiếp quá khứ”.
Một quan niệm cách mạng như vậy
được phổ biến rộng rãi, tất nhiên đã gây nên những làn sóng chống đối dữ dội.
Do áp lực của những tu viện nổi tiếng cũng như giới tăng lữ uy tín, triều đình
và Thiên-hoàng tỏ ra phẫn nộ và trách cứ. Họ buộc tội Pháp Nhiên và đệ tử đồng
bọn đã phá hủy nền tảng đạo đức xã hội, làm tổn hại đến quyền lực triều đình.
Thật ra, các tu viện lớn hồi đó
thường đóng vai trò chính trị trong các tổ chức triều đình, và đương nhiên trở
nên giàu có, bỗng thấy rằng họ sẽ trở thành vô dụng nếu tông phái Niệm Phật
phát triển to rộng, quyền lực của họ sẽ bị đổ vỡ và con đường danh lợi của họ
sẽ bị tan hoang. Họ phản ứng mạnh mẽ. Lập tức, Pháp Nhiên và các đệ tử bị tước
lột tăng tịch, rồi bị trục xuất khỏi thành phố, có thể bị kết án tử hình.
Thân Loan bị đày sang Kokobu
thuộc huyện Echigo (ngày nay là tỉnh Niigata ).
Đó là năm 1207.
Pháp Nhiên và các đệ tử bị chính
quyền triều đình phân tán thành những bộ phận rời rạc. Nhưng, tai họa này vô
tình tạo ra những điều kiện tốt đẹp nhất cho việc quảng bá giáo lý Niệm Phật dễ
dàng thành công, trong những miền đất lạc hậu, hoang sơ của đất nước Đại Hòa
vào thời ấy.
Năm năm sau, năm 1211, triều đình
ban hành sắc lệnh ân xá, cho phép Pháp Nhiên trở về Kyoto, nơi mà ngài sẽ từ bỏ
thế gian vào năm 1212 với tuổi thọ bảy mươi chín tuổi.
Dẫu được ân xá, Thân Loan vẫn lưu
trú tại Echigo cho đến vài năm sau để tiếp tục truyền bá giáo lý Niệm Phật,
cũng như để củng cố những nhóm đệ tử do ngài sáng lập.
Về sau, ngài định cư lâu dài tại
Inada, gần Hidachi, huyện Kasama (thuộc tỉnh Ibaraki ).
Cuộc sống của ngài vẫn còn xa
lánh thế nhân, nhưng nhiều nhân vật với những thân thế và địa vị cao thấp khác
nhau đã đến ra mắt tỏ ý cầu học. Ngài đã ban cho họ nhiều lời giáo huấn thích
hợp về pháp môn Niệm Phật.
Năm 1224, Thân Loan công bố tác
phẩm kiệt xuất và quan trọng nhất của ngài: ”Hợp tuyển về Giáo lý, Thực hành, Lòng tin và Chứng ngộ trong pháp môn Tịnh-độ”
(tiếng Nhật là: Ken Jôdo Shinjitsu Kyôgyôshô Monrui).
Tác phẩm này quan trọng đến nỗi
các tín đồ Niệm Phật đã lấy ngày phát hành làm ngày khai sinh truyền thống và
nền tảng của pháp môn “Đạo Phật Chân
Chánh của Tịnh-độ” tức là Tịnh-độ Chân-tông, (tiếng Nhật là: Jodo-Shinshu).
Cuốn sách “Hợp tuyển về Giáo lý, Thực hành,
Lòng tin và Chứng ngộ”, hiển nhiên là một tổng hợp thực sự các văn phẩm
Phật giáo Tịnh-độ. Sách gồm sáu chương, khéo léo kết hợp và dung hóa nhuần
nhuyễn những dẫn chứng từ các kinh luận cổ điển, những đề án luận giải, cùng
những chiêm nghiệm nội quán của tác giả.
Sau một bài đề tựa vô cùng hấp
dẫn, Thân Loan giải thích tại sao mình phải căn cứ vào bản kinh Vô Lượng Thọ để
làm nền tảng chính yếu trong việc sáng tác bộ luận thư này.
Đây là Chương I.
Tiếp theo, Thân Loan chứng minh
pháp Niệm Phật đã đúc kết trong bản thân Ngài đến những vô lượng vô số phương
thức tu tập.
Đây là Chương II.
Và lòng tin chắc thật, bền vững
như kim cương không những chuyển hóa tâm hồn chúng ta, mà còn đánh động đến
Trái Tim Thuần Khiết của A Di Đà (chân như tâm).
Đây là Chương III.
Kinh điển và sự luận giải của
Đại-thừa Phật-giáo thường đề xướng một sự chứng ngộ cùng tột, viên mãn, - có
nghĩa là đạt đến Niết-bàn tối thượng. Và hình thức chứng ngộ này còn hàm chứa
ẩn nghĩa rằng: Dẫu chư vị Bồ-tát đã hoàn toàn thoát khỏi mạng lưói rối rắm của
nghiệp lực, nhưng các Ngài vẫn tự nguyện tái sinh giữa lòng thế gian khốn khổ,
để giải thoát tất cả chúng sanh bởi lòng thương yêu rộng lớn, cao thượng và
không phân biệt sẵn có của mình.
Đây là Chương IV.
Trong hai chương cuối của “Hợp
tuyển”, Thân Loan đã bác bỏ những quan điểm thiên lệch về A Di Đà và cõi
Tịnh-độ của đức Phật này.
Thân Loan cũng chứng minh rằng:
Bằng đức tin rực rỡ như ánh sáng vô hạn lượng và vĩnh cửu như sức sống không
cùng tận, chư Phật vì mục đích cứu vớt chúng sanh, đã biểu lộ sự viên mãn cao
độ của Phật-tánh rốt ráo. Thân Loan còn xác định rằng: Cõi Đất Trong Sạch của A
Di Đà không phải là một thế giới vật chất được tìm thấy giữa các thiên hà xa
xôi, mà chỉ là một trạng thái thanh bình hạnh phúc thực sự của Tâm Linh, vượt
lên trên tất cả tư duy và diễn tả của thế gian tầm thường.
Không thể nào cảm nhận những ẩn
nghĩa trong giáo huấn của Thân Loan, nếu chúng ta không thấu suốt những bí mật
sâu thẳm trong ba bộ kinh đại-thừa: Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ, và A Di
Đà.
Trong ba bộ kinh nêu trên, qua sự
khảo cứu dày công của Thân Loan, thì bộ kinh Vô Lượng Thọ chứa đựng những giáo
lý cốt tủy, trọng yếu, và chính xác. Còn hai bộ kinh Quán Vô Lượng Thọ và A Di
Đà thì đóng vai trò bổ túc ý nghiã cho bộ kinh Vô Lượng Thọ mà thôi.
Để biện minh cho sự lựa chọn này,
Thân Loan dẫn chứng phần mở đầu của bản kinh Vô Lượng Thọ. Qua đoạn kinh này,
người ta thấy đức Thích Ca hiển thị
thần thông vĩ đại trước mắt thị giả A-nan. Như là: các căn vui vẻ, sắc mặt
thanh tịnh sáng rỡ vòi vọi, thân tướng oai nghiêm khả kính, cao diệu vô lượng,
không thể diễn tả hết được. Điều này khiến A-nan kinh ngạc vô cùng, bèn thốt
lời ca ngợi với trạng thái ngất ngây hớn hở:
“Hôm nay, Đấng Đại Tịch Tịnh đang
an trụ trong Diệu Pháp Duy Nhất và Huyền Nhiệm. Hôm nay, Đấng Kiệt Xuất Của Thế
Gian đang an trụ trong cảnh giới thiền định của chư Phật. Hôm nay, Đấng Mắt
Sáng Của Thế Gian đang an trụ trong Đại Nguyện Cưú Độ Chúng Sanh. Hôm nay, Đấng
Diệu Hoa Của Thế Gian đang an trụ trong Đạo Lý Tối Thượng Siêu Việt. Hôm nay, Đấng
Chúa Tể Chư Thiên xuất hiện để truyền đạt mọi thể tánh bình đẳng của Chư Phật
một cách viên mãn.”
A-nan vừa dứt lời,
thì đức Thích Ca đáp:
“Sự hiển thị thần biến ấy chính
là phương tiện khéo léo của đại bi tâm không giới hạn, mà Đấng Toàn Giác vì
thương xót chúng sanh trong ba cõi, đã xuất hiện nơi thế gian, đem những giáo
nghĩa về chân lý đưa ra ánh sáng công khai để dạy dỗ tất cả, trong ý nguyện cứu
độ chúng sanh bằng những diệu dụng của Như Thật Đạo.”
Phần tiếp theo
của bản kinh Vô Lượng Thọ là giáo lý về đức Phật A Di Đà cùng cõi tịnh-độ thanh
bình và an lạc của Ngài.
Nội dung thuyết giảng của bản
kinh Vô Lượng Thọ gồm hai phần:
Phần thứ nhất: Đức Thích Ca thuật
lại câu chuyện thuở xa xưa từ vô lượng vô biên kiếp sống đã qua. Thời ấy, có
một vị Phật quá khứ danh hiệu là Thế Tự Tại Vương, dưới pháp tòa của Ngài có
một vị đệ tử xuất sắc đứng đầu tăng chúng gọi là Bồ-tát Pháp Tạng.
Bồ-tát Pháp Tạng thỉnh cầu đức
Phật trình bày về vô số cõi Phật đầy rẫy trong khoảng bao la của vũ trụ, và
mong mỏi đức Phật chỉ dạy cho mình cách thức tu tập để cấu tạo và trang hoàng
một cõi Phật tuyệt đối trong sạch, thuần khiết và rực rỡ.
Nhận lãnh những lời huấn thị từ
kim khẩu đức Phật Thế Tự Tại Vương, tức khắc Pháp Tạng nhập vào thiền định một
thời gian vô cùng dài lâu, khoảng năm tỷ năm (tức là năm đại kiếp).
Sau khi ra khỏi thiền định,
bồ-tát Pháp Tạng đối diện đức Phật Thế Tự Tại Vương xin được tuyên đọc Bốn Mươi Tám Lời Thệ Nguyện Vĩ Đại, gọi là
Bản Nguyện. Trong các lời nguyện này, Pháp Tạng đã xác định những phẩm chất
tốt đẹp của cõi nước thanh tịnh mà mình kiến tạo, những ai hội đủ điều kiện để
tái sinh nơi cõi nước ấy thì sẽ hưởng dụng những tiện ích ưu thắng nào, và cuối
cùng là những điều kiện để đi sang cõi nước ấy mà sinh sống.
Như vậy, Bản Nguyện đã được thành
lập trước sự chứng nhận của đức Phật. Pháp Tạng ghi nhận lời huyền ký về quả vị
Phật của mình ở tương lai. Và trên nền tảng thể hiện Bản Nguyện, Pháp Tạng đã
dấn thân hiến mình cho vô lượng vô số phương thức tu tập Bồ-tát đạo, trải qua
vô số thân mạng và kiếp sống.
Phần thứ hai của bản kinh Vô
Lượng Thọ : khởi đầu từ việc đức Thích Ca công bố rằng: vị Bồ-tát Pháp Tạng đã
thành tựu quả vị Phật-đà, danh hiệu là A DI ĐÀ từ mười đại kiếp lâu xa cho tới
nay, tại thế giới trong sạch của Thanh Bình Và Hạnh Phúc.
Tất cả sự kiện vừa kể, đã chứng tỏ Bản
Nguyện của Bồ-tát Pháp Tạng đã được thực hiện đầy đủ như thế nào.
Trong tác phẩm “Hợp tuyển về Giáo
lý, Thực hành, Lòng tin và Chứng ngộ”
được sáng tác bằng Hán-ngữ, thánh nhân Thân Loan đã lựa chọn SÁU trong số
Bốn Mươi Tám Lời Nguyện Vĩ Đại của Bồ-tát Pháp tạng như là phần thiết lập nòng
cốt của bản kinh Vô Lượng Thọ.
Lời Nguyện thứ 12 và 13 phù hợp với
thể tánh của đức Phật A Di Đà bằng cái nhìn thuộc về không gian như là “ánh sáng không thể đo lường được” - và
bằng cái nhìn thuộc về thời gian như là “sự
sống không cùng tận, không giới hạn”.
Khái niệm “ánh sáng không thể đo
lường được” đồng nghĩa với tia sáng chói lọi rực rỡ không thể nào bị ngăn che
nổi - mặt khác, còn có ý nghĩa: ”trí tuệ không hạn định nổi”.
Khái niệm “sức sống không cùng tận”
phù hợp với một đời sống vĩnh cửu không thể nào hạn định được, và giải nghĩa
rằng đức Phật A Di Đà tự kéo dài tuổi thọ của mình để dẫn dắt chúng sanh: điều
này cho biết tại sao đời sống vô hạn thì đồng nghĩa với Đại Bi vô hạn.
Chính vì sự thành tựu của hai lời thệ
nguyện vĩ đại này, bồ-tát Pháp Tạng đã thành tựu địa vị Phật-đà với danh xưng “Ánh
Sáng Vô Lượng” tức AMITÂBHA - và “Thọ Mạng Vô Lượng” tức AMITÂYUS. Cả hai danh
xưng này được chứa đựng trong danh hiệu A Di Đà, nghĩa là VÔ LƯỢNG.
Thân Loan đã
đặt HAI lời nguyện này vào Chương Thứ Năm
của tác phẩm “Hợp Tuyển”, và nỗ lực tuyên dương A Di Đà như là “vị Phật chân
thật”, đức Phật của Chân Lý Tuyệt Đối. (thuật ngữ Phật-học gọi là Pháp Thân
Phật).
Đây là Hai Lời Nguyện ấy :
LỜI NGUYỆN THỨ 12 : Lúc tôi thành
Phật, nếu ánh sáng còn bị giới hạn, ít nhất là không soi chiếu thấu trăm triệu
tỷ cõi Phật, thì tôi thề không chấp nhận địa vị Toàn Giác.
LỜI NGUYỆN THỨ 13 : Nếu lúc tôi
thành Phật, thọ mạng của tôi còn bị hạn chế, ít nhất không kéo dài đến trăm
ngàn tỷ tỷ tỷ năm, thì tôi thề không chấp nhận địa vị Toàn Giác.
Chương Thứ Ba của “Hợp Tuyển” được đặt
nền tảng trên Lời Nguyện Thứ 17, Thân Loan xác định phương pháp thực hành mầu
nhiệm trong việc chứng minh danh hiệu A Di Đà chứa đựng tinh túy và phẩm cách
của tất cả chư Phật.
LỜI NGUYỆN THỨ 17:
Khi tôi thành Phật, vô số chư
Phật khắp mười phương trong vũ trụ thảy đều tuyên dương và xưng tán danh hiệu
tôi, nếu không phải vậy thì tôi thề không chấp nhận địa vị Toàn Giác.
Chương Thứ Ba của “Hợp Tuyển” còn xác
định lòng tin đặt nền tảng trên Lời
Nguyện Thứ 18, mà chúng ta suy diễn bằng cách nắm giữ những dòng giải thích
của Thân Loan :
LỜI NGUYỆN THỨ 18:
Khi tôi thành Phật, tất cả chúng
sanh trong mười phương thế giới hết lòng tin mộ muốn tái sanh trong cõi nước
tôi, bằng cách xưng niệm danh hiệu tôi ít lắm là mười lần - nếu không được tái
sanh thì tôi thề không chấp nhận địa vị Toàn Giác. Ngoại trừ những kẻ tạo tội
ngũ nghịch và hủy báng chánh pháp.
Nơi chương thứ tư của “Hợp
tuyển”, Thân Loan đã xác định khái niệm về chứng ngộ. Giai đoạn sơ chứng dành
cho các bậc bồ-tát sơ địa được dựa vào Lời Nguyện Thứ 11. Giai đoạn quả chứng
dành cho bậc bồ-tát đại địa được dựa vào Lời Nguyện Thứ 22. Và sau đây là Hai
Lời Nguyện ấy :
LỜI NGUYỆN THỨ 11:
Khi tôi thành Phật, nếu hàng Trời
Người trong cõi nước tôi không an trụ nơi Chánh Định hoặc giải thoát hoàn toàn,
thì tôi thề sẽ không chấp nhận địa vị Toàn Giác.
LỜI NGUYỆN THỨ 22:
Khi tôi thành Phật, các Bồ-tát từ
cõi khác đã được sanh về tịnh-độ của tôi, rốt ráo đều đắc quả Nhất Sanh Bổ Xứ
(chỉ còn tái sanh để tu một kiếp nữa thì
thành Phật). Trừ những người có bản nguyện riêng, tự tại hóa hiện, vì chúng
sanh mà phát thệ nguyện rộng lớn, thực hành các công đức, độ thoát mọi loài, du
hành khắp các thế giới thể hiện công hạnh Bồ-tát, cúng dường chư Phật ở khắp
mười phương, khai hóa vô lượng chúng sanh, làm cho tất cả đều trụ vững nơi đạo
tràng vô thượng chánh giác, vượt trội công hạnh của các bậc thông thường, hiện
tiền tu tập tánh đức của Bồ-tát Phổ Hiền - nếu không được như vậy thì tôi thề
sẽ không chấp nhận địa vị Toàn Giác.
Thân Loan không những chỉ khởi
xướng một sự diễn dịch được đặt nền tảng trên kinh Vô Lượng Thọ và kinh A Di
Đà, mà còn căn cứ vào những văn bản quan trọng khác của truyền thống Đại-thừa.
Trong những dòng chữ đầu tiên của
cuốn luận thư: ”Hợp tuyển về Giáo lý,
Thực hành, Lòng tin và Chứng ngộ”, Thân Loan hết lòng tri ân và ghi nhận
những kinh luận cũng như diễn giải của 7 vị tổ sư tiền bối, như:
Hai vị tổ sư phát xuất từ Ấn-độ:
Long Thọ Bồ-tát (thế kỷ I, II)
Thiên Thân Bồ-tát (thế kỷ IV)
Ba vị tổ sư Trung-hoa là :
Đàm Loan Tổ-sư (476 - 542)
Đạo Xước Tổ-sư (562 - 645)
Thiện Đạo Tổ-sư (613 - 681)
Cuối cùng là hai vị tổ sư
Nhật-bản :
Nguyên Tín (942 - 1017) tức Genshin Shônin
Pháp Nhiên (1133 - 1212) tức Hônen Shônin.
Thân Loan cũng quả quyết xác nhận
rằng, sự diễn giải của ngài tùy thuộc vào một kinh nghiệm tâm linh vô cùng sâu
thẳm, và điều này là một thành tố quan trọng, đã cho phép Thân Loan được phóng
khoáng trong sự lựa chọn những nghĩa lý
phù hợp với các văn bản mà ngài đòi hỏi khả năng lập thuyết của văn bản ấy. Và
kinh nghiệm tâm linh này được kiểm chứng bởi nhiều văn bản vốn lưu truyền tự xa
xưa, hoặc là Kinh hoặc là Luận, mà những nhà học giả chống đối có thể thẩm tra
tính cách chính xác của kinh nghiệm tâm linh ấy, kể từ thế kỷ 13 cho đến ngày
nay. Tác phẩm “Hợp tuyển về Giáo lý, Thực hành, Lòng tin và Chứng ngộ” đã được
Thân Loan rút gọn thành cuốn“Sưu tập những Nội Quán về pháp môn Tịnh-độ”, cũng
được viết bằng Hán-ngữ. Cuốn Sưu Tập nhỏ bé này gồm ba phần:
Phần thứ nhầt: tóm lược gọn ghẽ những gìv đã viết trong “Hợp Tuyển”, hoặc nói chính xác hơn, là tóm
lược 4 chương đầu tiên. Do vậy, ngài vẫn còn
sử dụng nguyên văn vài trích đoạn của tác phẩm cốt tủy ấy, tập hợp vài
dẫn chứng kinh điển hay những luận giải được soạn thảo bởi các vị tổ sư khai
sáng pháp môn Tịnh-độ thuở trước.
Phần thứ hai: Thân Loan giới thiệu một bản dịch khác của một
loạt thi kệ xuất hiện cuối chương II của
“Hợp Tuyển”: Ngài lược ghi tất cả lời giáo huấn của mình cũng như của 7 vị tổ
sư tiền bối.
Phần cuối cùng: giải đáp tất cả những
vấn đề tự nhiên phát sinh khi người ta so sánh những quan điểím khác biệt nhau
về Lòng Tin và Niệm Phật, trong ba bộ kinh căn bản của pháp môn Tịnh-độ.
Cuốn “Sưu Tập những Nội Quán” hay là
cuốn Những Trích Đoạn từ các văn bản Tịnh-độ sẽ được trình bày nơi mục đầu tiên
trong cuốn sách này (lời của dịch giả bản Pháp-ngữ Jean Eracle).
Bản dịch Pháp-ngữ này là một tác phẩm
chưa công bố của chúng tôi, được thực hiện từ nguyên bản chữ Hán cổ, do Rennyo
Shônin (Liên Như) sao chép và truyền lại từ thế kỷ 15. Rennyo Shônin vốn là đệ
tử kế thừa của Thân Loan thánh nhân cũng như của 8 vị tổ sư Tịnh-độ. Nguyên bản
của tác phẩm “Sưu Tập” cũng được công bố trong bộ Đại Tạng Kinh, cuốn 83, số
2647, tờ 644a thực hiện vào thời Đại Chính (Taishô) còn gọi là Đại Chính Tân Tu
Đại Tạng Kinh, (Taishô Shinshu Daizôkyô) bởi sự đóng góp công sức của
J.Takakusu và K. Wanatabé, Tokyo, Nhật-bản.
Tác phẩm “Sưu Tập Những Nội Quán
về pháp môn Tịnh-độ” là một công
trình mang tính chất đặc thù, quý hiếm của văn học Phật-giáo Nhật-bản vào thời
đại Kiếm Thương (Kamakura ).
Trong công việc dịch thuật, chúng tôi cố gắng dịch sát nghĩa theo nguyên bản
Hán văn, cốt sao cho gần gũi với thứ ngôn ngữ cô đọng và thường là bóng bẩy của
Thân Loan, vượt lên trên mọi qui ước ngữ pháp sẵn có vào thời ấy.
Chúng tôi đã mang lại cho bản
dịch Pháp-ngữ một sự sáng sủa vô cùng rõ nét, đồng thời cũng làm cho bản dịch
càng giản dị hơn nữa. Mặt khác, chúng tôi cố gìn giữ một giọng văn nồng ấm, dễ
chịu, để người đọc có thể cảm nhận như được chiêm nghiệm chính nội tâm mình,
hay là đang đối thoại với một người bạn, hoặc trò chuyện cùng người cha thân
ái.
Chúng tôi vẫn ghi nhận rằng, bản
văn “Sưu Tập” được cấu thành từ những nội quán, trầm tư sâu sắc của tác giả
Thân Loan và những trích dẫn cốt lõi từ “Hợp Tuyển”, thỉnh thoảng cũng có vài
đoạn được sửa đổi một cách nhẹ nhàng, gọn ghẽ. Chúng tôi không
e dè trong việc tách biệt những phân đoạn ra thành từng phần khác nhau, thỉnh
thoảng cũng cô lập từng câu văn riêng lẻ - vì điều này đã mang lại cho nội dung
tác phẩm những ấn tượng lạ lẫm, rất riêng.
Để nhận thức tác phẩm “Sưu Tập
những Nội Quán về Tịnh-độ” một cách sâu lắng, chúng ta phải nói rằng tác
phẩm này đã mang lại ít nhiều thú vị, khi Thân Loan đính kèm nhiều trang sách
đầy nghĩa lý tuyệt vời của bộ “Hợp Tuyển”, cũng do chính ngài viết ra. Đây cũng
là lý do khiến chúng tôi bắt đầu cảm thấy dễ dàng cho công việc dịch thuật vốn
đòi hỏi một thái độ nghiêm túc nhất định.
Thật vậy, ẩn dụ về “Con Đường An
Toàn” ám chỉ cho “Sưu Tập Những Nội Quán” xứng đáng là bản mô phỏng toàn diện
của “Hợp Tuyển”. Ở phương diện khác, bản “Sưu Tập” cũng có thể hoàn thành trước
kết cấu của Chương V và Chương VI của bản “Hợp Tuyển”, vì chúng ta hoàn toàn bất
ngờ về nội dung và cảm nhận nhiều thú vị với những điều cốt lõi được trình bày
trong đó.
Tất cả những bản văn của “Hợp
Tuyển” đã được tập hợp đầy đủ trong phần thứ nhì của cuốn sách này (lời của
dịch giả Jean Eracle), và các bạn có thể tìm thấy nguyên văn chữ Hán trong ấn
bản Đại Chính Tân Tu Đại Tạng Kinh, cuốn 83, tờ 589a đến 643a. Xin được nhắc nhở rằng, trong
phần thứ ba cuốn sách này, các bạn có thể tìm thấy 48 bài thi kệ bằng Nhật-ngữ
do ngài Thân Loan chú giải và phiên dịch từ bản trường ca của ngài Đàm Loan, tổ
sư Tịnh-độ Trung-hoa: “Thánh Thi Tán Thán A Di Đà” (Nhật-ngữ: San Mida Ge
Wasan) của Thân Loan, được in trong Đại Tạng Kinh cuốn 83, tờ 655c đến tờ 657b.
Rốt cuộc, mặc dù bận rộn với vô
số họat động truyền bá giáo lý Niệm Phật, và bắt buộc phải sống rày đây mai đó,
nhưng Thân Loan cũng đã hoàn tất lắm công trình đáng kể: nhiều tác phẩm bằng
Hán-ngữ và Nhật-ngữ, nhiều khảo luận súc tích, nhiều bản ký sự, sưu tập thi kệ
và cả vô số thư từ cho những đệ tử ở nơi xa.
Tuy nhiên, chúng ta phải nhớ rằng,
cuốn “Hợp tuyển về Giáo lý, Thực hành, Lòng tin và Chứng ngộ” và cuốn “Sưu tập
những Nội quán về pháp môn Tịnh-độ” mới đúng là phần cốt tủy đích thật của giáo
lý Thân Loan.
Trong giai đoạn cuối cùng của
kiếp sống, Thân Loan thánh nhân trở về Kyoto,nơi mà ngài đã từng thay đổi chỗ ở
rất nhiều lần - và ngài hân hoan mở rộng vòng tay đón nhận những người đến gõ
cửa, rồi giáo dục họ bằng pháp môn Niệm Phật.
Năm 1263, tại thủ phủ Kyoto, ngài
thản nhiên day mặt về hướng Tây, nằm nghiêng trong tư thế “sư tử ngủ” như phong
cách chư Phật nhập Đại Niết Bàn, rồi từ giã thế gian mà trở về Cõi Sạch A Di
Đà, để lại vô vàn kính ngưỡng cho rất nhiều đệ tử.
Hình ảnh cao đẹp của ngài vẫn còn
sống động trong lòng nhân dân Nhật-bản cho đến thời đại ngày nay.
Vài
hàng sơ lược về Jean Eracle
Theo lời giới thiệu của nhà xuất
bản Seuil, Paris ,
thì Jean Eracle nguyên là Quản Đốc Viện Bảo Tàng Dân Tộc Học Á Châu, đặt trụ sở
tại Geneve, Thụy-sỹ. Do một nhân duyên vô cùng kỳ lạ, ông được sang Nhật-bản
lưu trú suốt mấy mươi năm để học hỏi cùng thực hành Niệm Phật theo giáo pháp
của “”Đạo Phật Chân Chánh trong Pháp môn Tịnh-độ” tức Tịnh-độ Chân-tông do ngài
Thân Loan Thánh Nhân khai sáng cách đây gần 8 thế kỷ.
Rất thông tạo tiếng Nhật-bản và tiếng Hán cổ,
ông Jean Eracle đã nỗ lực phiên dịch các tác phẩm của tổ sư Thân Loan sang
tiếng Pháp, với ước mong giới thiệu và cống hiến cho nước Pháp và cả thế giới
biết đến một phương thữc vô cùng đơn giản, dễ dàng đạt được hạnh phúc và mau
chóng chứng ngộ ngay giữa kiếp sống này: đó là pháp Niệm Phật, xướng danh hiệu
Nam mô A Di Đà Phật.
Ngoài ra, Jean Eracle còn chấp
bút và cho ấn hành những công trình sau:
- lời dạy của đức Phật
- một đạo Phật dành cho tất ca ímọi người: Niệm Phật
Tịnh-độ.
- Giáo nghĩa Niệm Phật: giới thiệu Đại Kinh, Quán Kinh, và
Tiểu Kinh.
- Cẩm nang đạo Phật của nước
Trung-hoa ngày xưa : Kinh Bốn Mươi Hai Chương.(Tứ Thập Nhị Chương Kinh)
- Kinh Phật Thuyết A Di Đà, theo
bản dịch của Pháp-sư Cưu-Ma-la-Thập.
-
Nguồn cội Đại Thừa
Phật Giáo : Tịnh-độ Tam Kinh và Vãng Sanh Luận.
-
Văn minh Võ Sỹ Đạo.
-
. . . v . . . v . .
.
No comments:
Post a Comment