(8) NĂNG LỰC CỦA BI NGUYỆN
Thân
Loan tôi xin nghiêng mình kính cẩn thưa cùng các bậc thiện hữu tri thức mong
muốn tái sanh Tịnh-độ rằng:
Đại Dương Nhất Thừa của Bản
Nguyện vĩ đại, rộng khắp và vô lượng quyền năng, là hoàn hảo tuyệt vời, không
chướng ngại và vô giới hạn. Nó là rất khó diễn đạt bằng ngôn ngữ, nằm ngoài mọi
lời nói và khái niệm, được trang nghiêm bằng công đức tối thắng, tối thượng. Và
vì tại sao như vậy? Bởi vì tự thân Bản Nguyện vốn không thể tư duy và diễn tả,
không thể cảm nhận bằng tri thức thế gian. Chỉ thực chứng bằng cách xướng đọc
danh hiệu Nam
mô A Di Đà Phật trong mọi tình huống của đời thường.
Sau đây là những biểu tượng tương
ứng với năng lực của Bi Nguyện:
1/. Bi
Nguyện thì bao la vô tận như hư không vũ trụ, bởi vì những phẩm chất vi diệu
của nó thì đồ sộ, lớn rộng và vô giới hạn.
2/. Bi
Nguyện tựa như chiếc xe vĩ đại, vì nó có khả năng chuyển vận những bậc thánh
cũng như những chúng sanh tầm thường đến khắp mọi nơi.
3/. Bi
Nguyện như đóa sen trắng, vì nó không bị nhiễm dơ bởi bất cứ sự vật nào của thế
gian.
4/. Bi
Nguyện tựa như chúa tể của các vị thuốc, vì có thể chữa lành tất cả những người
mắc bệnh tham dục.
5/. Bi
Nguyện như lưỡi kiếm sắc bén, vì nó có thể đâm thủng tất cả áo giáp kiêu ngạo
và lãnh đạm.
6/. Bi
Nguyện tựa như lá cờ của vị đại tướng dũng cảm, vì có thể hành phục tất cả đạo
quân của Ma-vương.
7/. Bi
Nguyện tựa như lưỡi cưa sắc nhọn, vì nó có thể cưa đứt tất cả gốc cây ngu si.
8/. Bi
Nguyện tựa như một lưỡi rìu vô cùng lợi hại, vì nó có thể chặt đứt tất cả cành
nhánh khổ đau.
9/. Bi
Nguyện tựa như một vị thiện tri thức, vì nó có thể giải thoát gông xiềng Sanh
Tử.
10/. Bi
Nguyện tựa như người dẫn đường, vì với thiện chí, nó có thể giúp chúng sanh
biết rõ phương tiện chính yếu để thoát ra khỏi rừng tham dục.
11/. Bi
Nguyện tựa như dòng suối sống động, vì nó làm tuôn rỉ ra những giọt nước Trí
Tuệ không bao giờ cạn.
12/. Bi
Nguyện tựa như bông sen trắng, vì không bị vấy bẩn bởi bùn dơ của tất cả hành
vi xấu ác.
13/. Bi
Nguyện tựa như làn gió bấc nhè nhẹ vì nó xua tan sương mù của mọi chướng
ngại.
14/. Bi
Nguyện tựa như một bình rượu tiên ngọt dịu vì nó được rót đầy bởi tất cả vị
ngon ngọt của công đức vô lậu.
15/. Bi
Nguyện như con đường thẳng, vì nó khiến đám đông đi thẳng vào lâu đài trí tuệ.
16/. Bi
Nguyện như một khối đá nam châm, vì nhờ phương tiện của Bản Nguyện A Di Đà mà
chúng ta được sức hút của Phật lôi cuốn.
17/. Bi
Nguyện như vàng ròng của dòng sông Jambu, vì vượt trội hơn tất cả báu vật thế
gian tầm thường, tạm bợ.
18/. Bi
Nguyện tựa như kho tàng bí mật, vì chứa đựng tri kiến giải thoát của chư Phật.
19/. Bi
Nguyện tựa như chất liệu của đất, vì nó là lý do xuất hiện ở thế gian của chư
Phật khắp mười phương ba đời.
20/. Bi
Nguyện tựa như tua sáng rực rỡ của mặt trời vì nó hủy diệt bóng tối ngu si của
tất cả chúng sanh tầm thường, và khai sinh trong tất cả chúng sanh ấy một Đức Tin
Thanh Tịnh.
Chính
Bi Nguyện là tác nhân cho phép chúng ta thoát khỏi lâu đài nghiệp quả của ba
cõi thế gian: dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Chính Bi Nguyện là người ra
lệnh đóng cánh cửa dẫn vào 25 chỗ tái sanh. Chính nó giúp chúng ta đạt đến Cõi
Miền Chân Thật của Cực Lạc, cho phép cúng ta phân biệt đâu là con đường chân
chánh, đâu là con đường tà ngụy, nó tháo cạn đại dương khổ não của tất cả chúng
sanh, nó tích lũy tất cả châu báu công đức và tri kiến giải thoát, mở ra kho
tàng của các phương tiện thiện xảo.
Để kết
luận, chúng ta phải trân trọng giữ gìn Bi Nguyện và kính cẩn nâng niu nó ở ngay
trước mặt mình.
(9)
LÒNG TIN
Lòng
Tin Vĩ Đại, là :
- một
sức mạnh siêu nhiên làm cuộc sống trở nên trường cửu và đưa con người vượt
thoát cái chết.
- một
kỹ năng mầu nhiệm, thu hút sự Thuần Khiết và kinh tởm những điều dơ bẩn.
-
một tâm linh giản dị được tuyển chọn đặc biệt để hồi hướng công đức đến
Phật-quả.
- một
niềm tin thanh tịnh mà sự nghiệp giải thoát chúng sanh phải nương nhờ niềm tin
này để tiến hành với phương tiện rộng lớn và sâu thẳm.
- một
tinh túy của sự thật, mà tinh túy ấy luôn luôn bền chắc như kim cương.
- một
đức tin trong sạch mà nếu thiếu đức tin này thì dẫu một thái độ phi nhân tính
cũng khiến đọa lạc dễ dàng trong các cõi xấu ác.
- một
tâm hồn chuyên nhất, mà nhờ nó, chúng ta được bảo bọc và che chở bởi ánh sáng
giác ngộ tâm linh.
- một
niềm tin hiếm có và vượt lên trên mọi
giá trị thế gian
- một
sự ngắn gọn, cô đọng, giản đơn - mà thế gian không thể nào chấp nhận dễ dàng,
thế nhưng nó đúng là nhân tố cốt tủy để thực chứng Đại Niết-Bàn
- một
đường lối an toàn đưa đến giải thoát viên mãn vô cùng nhanh chóng.
- một niềm tin bao la như đại
dương, phản ánh thể tánh trung thực của tri kiến nhất như và chân thật.
Mà
tâm này được phát khởi từ Thệ Nguyện tiếp độ tất cả vãng sanh Cõi Sạch bằng
phương tiện Niệm Phật.
(10)
Ngài
Thiện Đạo nói: Tâm Sâu Thẳm (Thâm Tâm) là tâm đã thành tựu một đức tin sâu
thẳm, chính nó mang hai phong cách tư tưởng như sau :
MỘT:
chúng ta thường nghe mọi người trong cơn khổ đau hoặc thất bại, đã bày tỏ sự
nhận định thế này: cuộc sống này đây không chỉ là một dòng hiện sinh thầm
thường, tẻ nhạt và xấu xa, miễn cưỡng vận hành theo vòng quay sống chết từ thuở
xa xăm, từng bị chìm đắm giữa trục xoáy Luân Hồi chẳng bao giờ vượt ra khỏi.
Quan điểm này có vẻ như đầy thuyết phục và mang tính cách kiên định, sâu sắc
đấy chứ?
HAI
: Chúng ta thỉnh thoảng cũng đã từng nghe một quan điểm sâu sắc, kiên định và
đầy sức thuyết phục khác: Đức Phật A Di
Đà thường bảo bọc và che chở tất cả chúng sanh bằng phương tiện của Bốn Mươi
Tám Lời Nguyện, và nói đúng hơn, người ta chắc chắn đạt được sự vãng sanh
Tịnh-độ nếu sử dụng chiếc xe hoàn hảo và tiện lợi của năng lực thệ nguyện.
Tất
cả các bậc thiện tri thức ước mong vãng sanh Tịnh-độ đều cũng đã nói như vậy.
(11)
THÍ DỤ VỀ CON ĐƯỜNG AN TOÀN
Bây
giờ, tôi xin kể một thí dụ nói về mục tiêu của những người niệm Phật trong dụng
ý bảo vệ tâm hồn tràn đầy niềm tin của họ, chẳng khác chi là tự nguyện làm một
bờ đê an toàn để ngăn chống mọi gươm đao tấn công của những kẻ tà kiến mang
những quan niệm lầm lẫn và khác biệt.
Thí
dụ ấy như thế nào?
Có
một người muốn đi xa trăm ngàn dặm vềì hướng Tây. Thình lình, trong khi rảo
chân tiến bước, y thấy hai dòng sông: một là dòng sông rực lửa xuất hiện ở
phương Nam ,
kia là dòng sông ngập nước đang phơi trải nơi phía Bắc.
Hai dòng sông ấy đều rộng khoảng trăm
bước chiều ngang và bề sâu thăm thẳm dường như không thấy đáy. Về phía Nam và
phía Bắc, hai dòng sông trôi xuôi vô tận đến cuối chân trời. Ngay vào khoảng
trung tâm giữa nước và lửa duy nhất chỉ có một lối di an toàn, bề rộng khoảng
bốn năm tấc. Lối đi này cách bờ Tây và bờ Đông một khoảng cách chừng một trăm
bước.
Những đợt sóng cuộn tròn trên mặt
nước, tràn lấp sát mé lối đi, và những ngọn lửa bùng lên lấn áp lề đường. Nước
và lửa lần lượt va chạm lẫn nhau, liên tục như vậy và không hề sút giảm.
Người
kia chợt dừng lại, nhìn qua một thảo nguyên khô cằn, thấy một miền đất hoang vu
không một bóng người. Lúc bấy giờ trong tầm nhìn của gã đàn ông đơn độc này,
xuất hiện vô số kẻ cướp và bầy thú hung tợn ồ ạt xông vào với bộ dạng đằng đằng
sát khí. Vì quá sợ chết, y đã tháo chạy về hướng Tây.
Chốc
lát, y nhận ra hai dòng sông lửa và nước ấy, bèn tự nhủ:
- Ta
không biết hai con sông này bắt nguồn từ phương Bắc hay phương Nam, nhưng ở
giữa chỉ có độc nhất một lối đi an toàn vô cùng chật hẹp, dường như hai bờ sông
rất gần kề nhau. Tuy nhiên, chiều rộng của chúng kể từ bờ này đến bờ kia đều có
khoảng cách không thể vượt qua được. Chắc chắn hôm nay chính là thời điểm kết
thúc mạng sống của mình.
“Nếu ta
lùi lại đằng sau thì bọn lâu la thảo khấu và bầy thú dữ càng lúc càng bao vây
rất gấp. Nếu ta quay sang phía Bắc hoặc phía Nam thì bầy thú dữ cùng lũ độc xà
sẽ lao vào cắn xé ta thành trăm nghìn mảnh. Nếu ta muốn sử dụng con đường về
phương Tây thì thật đáng ngán, nếu bị rơi tõm xuống hai con sông đầy lửa và
nước kia. Mình cảm thấy một mối khiếp sợ không thể nào diễn tả được.
Rồi y
trầm tư:
“Với
ta, nếu giơ ìnay mà thụt lùi lại tức là chết tức khắc. Đứng yên tại chỗ: cũng
đụng phải cái chết thê thảm. Tiến lên phía trước cũng không tránh khỏi cái
chết. Ví dầu ta có thể tìm ra một phương kế nào đó để
vuột khỏi lưỡi hái tử thần, thì
cũng chẳng có mưu chước nào hơn là sử dụng con đường trước mặt. Bởi vì dù muốn
hay không, nhất định phải nương vào con đường ấy mới mong vượt qua mọi hiểm
nguy trong đường tơ kẽ tóc”.
Nghĩ
ngợi vừa xong, y chợt thoáng nghe một tiếng gọi cường liệt, dũng cảm của một
người đang cố sức khích lệ từ phía Đông:
Này,
hỡi người kia! Ngươi chỉ còn một giải pháp là tiến lên con đường này, bởi vì
mọi lối đi khác đều nguy hiểm chết người, mà đứng yên tại chỗ cũng sẽ phải chết!
Lát
sau, trên bờ Tây, xuất hiện một người buông tiếng gọi:
-Hỡi bạn! Chỉ với tâm chuyên nhất và tư
tưởng chân chánh, ngươi hãy bước thẳng tới! Ta có thể bảo vệ ngươi, đừng sợ bị
rơi vào lửa hoặc té xuống nước!
Đến
khi người ấy nghe được từ bên này là tiếng nói cường liệt đầy khích lệ, từ bên
kia là tiếng gọi giục giã bức bách - y lấy lại bình tĩnh cho thể xác và tinh
thần, quyết định chọn giải pháp chắc chắn, đó là bước thẳng lên con đường trước mặt, lòng chẳng còn dấy lên
một chút do dự hoặc sợ hãi.
Nhưng
khi mới tiến tới vài ba bước, thì bên bờ Đông, bọn lâu la thảo khấu lên tiếng
sống sượng:
- Này
ông bạn kia ơi, hãy lùi gót! Con đường ấy thật lắm hiểm nghèo, bạn không thể
bước qua phía khác được: chớ nghi ngờ mà chi! Bạn chắc chắn sẽ phải tàn úa đời
thanh xuân! Về phần bọn tớ, bọn tớ quyết không để cho bất cứ ai rơi vào lầm lẫn
cả!
Mặc dù
nghe được lời réo gọi ấy, gã đàn ông đáng thương của chúng ta cũng chẳng thèm
nhìn ngoái lại. Với tâm chuyên nhất, y chỉ nghĩ đến việc đi thẳng tới và tiến
bước trên con đường đã định. Trong khoảnh khắc, y đặt chân lên bờ Tây, nơi
không còn một chút hiểm nguy nào nữa cả. Y liền nhận ra người thiện hữu tuyệt
vời và cảm nhận lòng mình ngập tràn hạnh phúc bất tuyệt.
(12)
Ý NGHIÃ CỦA THÍ DỤ
Câu
chuyện kể trên, là Thí Dụ của chúng ta. Bây giờ, tôi muốn bàn về ý nghĩa của
thí dụ ấy.
Bờ phía Đông: chính
là nơi chìm đắm trong ngọn lửa ngùn ngụt của thế giới Ta-bà.
Bờ phía Tây: ấy là
xứ sở quý giá tuyệt vời của Hạnh Phúc Tối Thượng.
Những bọn lâu la thảo khấu và các
bầy thú dữ, tương quan mật thiết với mưu ma chước quỷ, đó là:
·
sáu căn:
nhãn căn nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn, thân căn, ý căn.
·
sáu
trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
·
sáu
thức: nhãn thức, nhĩ thức. tỷ thức. thiệt thức. thân thức, ý thức.
·
ngũ uẩn:
sắc, thọ, tưởng, hành, thức.
·
tứ đại:
đất, nước, gió, lửa.
Người đàn ông du hành qua thảo nguyên
khô cằn không một bóng người: chính là nhân loại có khuynh hướng đi
theo những bạn bè xấu ác không bao giờ gặp được một người bằng hữu chân thật và
trí dũng.
Dòng sông ngập nước: tượng trưng cho
tình
yêu chấp ngã (ái dục) của tất cả chúng sanh. Và dòng sông ngùn ngụt lửa đỏ: thì tượng trưng cho sự giận dữ và hận thù.
Lối đi an toàn rộng bốn năm tấc: ấy là
Tâm
của tất cả chúng sanh dù ở giữa cơn lốc tham dục, khát ái và hận thù, vẫn có
thể phát khởi ước muốn trong sạch được vãng sanh Tịnh-độ. Khát khao và hận thù
được tượng trưng bởi nước và lửa, vì sức mạnh ghê hồn của chúng, trong khi tâm
hồn tuyệt diệu được tượng trưng bởi con đường an toàn do tính chất thanh cao,
vi tế của nó.
Hơn
nữa, những ngọn sóng ồ ạt tràn ngập con
đường tượng trưng cho những tư tưỏng tham dục liên miên trổi dậy và có thể
nhận chìm tâm hồn tuyệt vời. Còn những ngọn lửa ngùn ngụt bốc liếm liên tục
thì tượng trưng cho những tư tưởng thù hận và lỗi lầm, có thể đốt cháy châu báu
công đức được lưu xuất từ Chánh Pháp.
Người lữ hành đang tiến bước trên con
đường hướng về phương Tây: chính là kẻ hiến mình cho tất cả hành vi và
công phu tu tập đưa đến việc vãng sanh nơi Tịnh-độ Tây-phương.
Tiếng nói vang vọng từ bờ Đông của người khích
lệ hãy dấn bước mạnh mẽ trên con đường về Tây, đó chính là tiếng nói của đức
Phật Thích Ca Mâu Ni - mà sau khi Ngài diệt độ, chúng ta không còn thấy được
kim thân và tướng hảo của Ngài bằng đôi mắt thịt của kẻ phàm tục nữa, chỉ có
Chánh Pháp là tồn tại để khai thị cho chúng sanh.
Những bầy thú dữ kêu gào réo gọi kẻ lữ
hành,
khiến y có thể dở chứng tần ngần buông lỏng vài ba bước chân, tượng trưng cho
đám đông nhân lọai thường đa mang đủ thứ tri thức lệch lạc, những công phu tu
tập khác biệt bằng cái nhìn lầm lẫn, bằng những lời nói dối trá thô bỉ, gạt gẫm
kẻ lữ hành thay đổi quan điểm nhận thức đến nỗi có thể chối bỏ con đường phải
đi.
Tiếng gọi giục giã của ông lão phát ra
từ bờ Tây, đó
là Ý Chí được biểu lộ qua Bản Nguyện A Di Đà.
Trong khoảnh khắc, người lữ hành đặt đôi
chân lên bờ Tây, thấy người thiện hữu tuyệt vời và y bày tỏ nỗi vui mừng vô hạn:
chính là tất cả chúng sanh từng bị chìm đắm dài lâu trong dòng sống chết
và quay cuồng lăn lộn trong nẻo luân hồi từ thuở vô lượng kiếp xa xưa, tự trói
buộc chính mình và không có năng lực giải thoát bản thân, hoàn toàn sống trong
ảo tưởng ê chề, đã đón nhận lời khích lệ
đi về hưóng Tây do đức Thích Ca thốt ra - lại nữa, còn có tiếng gọi giục
giã xuất phát từ lòng đại từ đại bi của A Di Đà, nên những chúng sanh ấy đã tin
cậy và vâng theo lời dạy của hai đức Như Lai - không bao lâu, tất cả chúng sanh
chẳng còn lo sợ mọi hiểm nguy của hai dòng sông lửa và nước, liền phó thác sự
vận hành bản thân cho con đường của năng lực Bản Nguyện, sau khi lâm chung được
vãng sanh Tịnh-độ, gặp được Phật và cảm nhận niềm hoan lạc không bao giờ úa
tàn.
(13) MƯỜI THỨ LỢI ÍCH
Bất cứ
người nào niệm Phật và chứng được Tâm Chân Thật bền chắc như kim cương, thì tạo
một bước nhảy vượt lên trên năm nẻo luân hồi và tám tai nạn ngăn trở việc phát
triển Tâm Linh (17), trong đời sống như vậy, người ấy được trang nghiêm tự thân
bằng mười thứ lợi ích:
1/.
Được hưởng sự che chở bí mật của chư Thiên, các vị thiện thần, của rất đông
chúng sanh khuất mặt từ các cảnh giới siêu hình.
2/.
Được trang nghiêm bằng Công Đức Tối Thượng.
3/.
Được thấy rõ sự cải biến tâm linh ngay nơi tự thân: chuyển hóa điều tà ác trở
thành chân thiện.
4/.
Được che chở bởi chư Phật.
5/.
Được tán thán bởi tất cả chư Phật.
6/.
Được bao trùm liên tục bởi ánh sáng tâm linh của A Di Đà.
7/.
Được hiển thị vô số niềm vui nội tâm.
8/.
Được cảm nhận lòng tri ân bởi sự hộ trì tưởng nhớ do lòng đại từ của chư Phật.
9/. Được thường xuyên tiến bước trong
Đại Bi.
10/. Được trở thành phần tử của
nhóm người tu tập thiền định chân chánh trong đạo Phật (được tham dự vào
hàng ngũ Chánh Định Tụ).
(14)
Khi tôi
miệt mài trầm tư về Đức Phật Chân Thật và Cõi Nước Chân Thật của Ngài, tôi mới rõ ra rằng: Đức Phật Chân Thật chính
là Đấng Toàn Giác của ánh sáng siêu việt tư duy và mô tả - và Cõi Nước Chân
Thật chính là Cõi Miền của ánh sáng không cùng tận. Chắc hẳn vì những thứ ánh
sáng ấy được lưu xuất từ Thệ Nguyện Đại Bi, nên chúng được gọi là “Đức Phật Chân
Thật” và “Cõi Miền Chân Thật của Cực Lạc”. Lời nguyện tương quan với sự việc
này, trước hết là lời nguyện xác quyết hiệu năng của ánh sáng, tiếp theo là lời
nguyện xác quyết sức sống không cùng tận. Như bản kinh Vô Lượng Thọ đã ghi:
“Khi tôi thành Phật, nếu hiệu năng của
ánh sáng còn bị hạn chế, ít nhất không chiếu soi thấu trăm nghìn triệu tỷ thế
giới hệ, thì tôi không chấp nhận địa vị Toàn Giác”. - Và:
“Khi
tôi thành Phật, nếu thọ mạng của tôi còn bị hạn chế, ít nhất không tới trăm
nghìn tỷ tỷ tỷ năm, thì tôi không chấp nhận địa vị Toàn Giác”.
No comments:
Post a Comment