Blogroll

Thursday, April 10, 2014

GIÁO HÀNH TÍN CHỨNG - THÂN LOAN thánh nhân (Phần 1)

GIÁO HÀNH TÍN CHỨNG

(tức  GIÁO LÝ, THỰC HÀNH, NIỀM TIN,
VÀ CHỨNG NGỘ
trong pháp môn Niệm Phật tịnh độ)

của THÂN LOAN thánh nhân

  
Nguyễn Xuân Chiến dịch từ bản Pháp ngữ :
Florilège sur l’enseignement, la pratique, la foi et la réalisation selon l’école de la Terre Pure. Trích trong cuốn sách:
“Sur le vrai Bouddhisme de la Terre Pure”
Do Jean Eracle dịch từ tác phẩm Giáo Hành Tín Chứng của Thân Loan.







(1) LỜI TỰA

  
Theo ý kiến cạn cợt hèn mọn của tôi, con người thật khó mà cảm nhận Bản Nguyện siêu việt, rộng khắp và vô lượng quyền năng, vượt lên trên mọi suy tư và diễn tả của đức Phật A Di Đà. Đó là chiếc thuyền vĩ đại đưa chúng ta qua khỏi đại dương sóng gió hiểm nghèo. Ánh Sáng không bao giờ bị che khuất, chính là Mặt Trời Ân Huệ phá tan bóng đêm ngu si.
          Tôi tin chắc rằng, danh hiệu “Nam mô A Di Đà Phậtngợi ca Đạo Lý viên mãn, thường bảo bọc và che chở tất cả chúng sanh, chính là trí tuệ chân thật để cải biến điều xấu ác một cách hiệu quả, mặc dù niềm tin tràn trề hỷ lạc thì bền chắc như kim cương và khó thủ đắc. Chính lòng tin này là yếu tố thật sự cần thiết để cắt lìa mọi nghi ngờ và đưa đến Chứng Ngộ.
Đây chính là giáo lý chân thật mà các chúng sanh thấp kém, tầm thường sẽ dễ dàng thực hiện. Đây là pháp tu ngắn gọn, đơn giản mà những kẻ ngu si vô trí sẽ dễ dàng tu tập. Giữa hết thảy giáo lý của đức Thích Ca, thì không có một giáo pháp nào có thể sánh kịp với đại dương công đức của pháp Niệm Phật này .



 (2)

Xướng đọc Danh Hiệu, đó là hành vi tối thượng, và thật sự nhiệm mầu, để đưa chúng ta tham dự vào “nhóm người tu tập thiền định chân chánh của đạo Phật” (thâm nhập Chánh Định Tụ). Hành vi khiến chúng ta trở nên phần tử của nhóm người tu tập thiền định chân chánh, đó là Niệm Phật.
Niệm Phật, tức là xướng đọc “Nam-mô-A-Di-Đà-Phật” thường xuyên, liên tục.
Ngài Thiện Đạo, tổ sư Tịnh-độ, đã luận giải :
          Từ ngữ “Nam mô” nghĩa là “Tôi xin trở về nương tựa… “, nhưng cũng có thể diễn giải: ”Tôi phát khởi ước mong…” hoặc: “Tôi tự hướng bản thân đến…”
“A Di Đà Phật” tức là đức Phật A Di Đà, tự thâu tóm trong Ngài vô số vô lượng công đức tu tập của quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Do việc xướng niệm danh hiệu Ngài, tất nhiên chúng ta đạt được sự tái sanh nơi Cõi Miền Trong Sạch (Tịnh-độ).
Chú Thích:
A Di Đà hoặc A Mi Đà bao gồm 2 từ ngữ  Sanskrit: Amitâbha và Amitâyus.    
AMITÂBHA: Vô Lượng Quang: ánh sáng không đo lường được và không giới hạn được. Dựa vào một quan niệm phổ biến của Phật giáo cũ, cho rằng đức Phật có khả năng phóng ra từ kim thân của Ngài những luồng ánh sáng tràn khắp vũ trụ. Nhưng thật ra, với trí tuệ bất tư nghị, Ngài siêu việt trên tất cả mọi thứ ánh sáng vật chất và cả ánh sáng tâm linh.
AMITAYUS: Vô Lượng Thọ: sức sống không cùng tận,  thọ mạng không cùng tận.
Thông thường, bất cứ một vị Phật quá khứ nào cũng có tuổi thọ tương ứng với kiếp sống của nhân loại vào thời điểm mà đức Phật ấy giáng sanh. Phạm vi rộng lớn của tia sáng và độ dài lâu của tuổi thọ, cũng phải tương ứng với những khái niệm về không gian và thời gian, đều được quy định bởi những Thệ Nguyện riêng biệt được phát ra khi Ngài còn tu tập bồ-tát đạo.
Trong trường hợp đức Phật A Di Đà, được trích dẫn từ kinh điển,  Ngài vì lòng đại bi mà phát nguyện giải thoát tất cả chúng sanh khắp không gian vô tận và trong thời gian vô cùng, cho nên tia sáng của Ngài cũng  có hiệu năng vô giới hạn và sức sống của Ngài cũng dài lâu không thể hạn lượng được.




(3)
Tổ sư Thiện Đạo còn dạy: “Điều kiện chính yếu để tái sanh nơi   Cõi Miền Trong Sạch  ấy  là điều kiện đã được xác định  qua  bản kinh Sức Sống Không Cùng Tận (Vô Lượng Thọ Kinh), trong 48 lời nguyện của A Di Đà.
 “Phật A Di Đà thề rằng: ”Nếu khi tôi thành Phật, tất cả chúng sanh khắp mười phương nếu mong muốn tái sanh nơi cõi nước tôi, thì hãy xướng đọc danh hiệu tôi cho được mười lần, sử dụng chiếc xe nguyện lực, và nếu không được tái sanh thì tôi thề không đắc quả Toàn Giác”.
“Điều này nghĩa là, bất cứ ai xưng niệm Phật với ước muốn tái sanh nơi Cõi Sạch thì được hộ trì bởi năng lực Bản Nguyện, vào thời điểm kết thúc mạng sống sẽ tức khắc được tái sanh Cõi Sạch. Đó là lý do tại sao ta bảo rằng Niệm Phật là điều kiện chính yếu để tái sanh nơi Miền Đất Trong Sạch”.


(4)
Trong tác phẩm“Tuyển tập đặc biệt về Niệm Phật căn cứ vào Bản Nguyện”, ngài Pháp Nhiên viết:
Chính ngay nơi tự thân danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật đã làm chúng ta được tái sanh nơi Tịnh-độ. Niệm Phật là căn bản của sự Vãng Sanh.
Pháp Nhiên cũng dạy:
 “Nếu con muốn nhanh chóng vượt thoát khỏi gông cùm Sanh Tử, thì con phải chọn lựa giữa hai giáo lý cao thượng : một là khuynh hướng đi theo Con Đương Tu Tập của Thánh Nhân (Thánh Đạo Môn); hoặc chọn lựa khuynh hướng thứ hai, đó là đi theo Con Đường Dễ Thực Hành của Tịnh-Độ (Tịnh-Độ Môn), tức là chấp nhận tái sanh nơi Cõi Sạch.
Nếu con quyết định vãng sanh nơi Tịnh-độ thì con cũng đứng trước hai loại phương thức tu tập để mình phải lựa chọn : thứ nhất, là những pháp tu đúng đắn, chuyên nhất - thứ hai, là những pháp tu tạp loạn. Và con hãy gạt bỏ những pháp tu tạp loạn, lộn xộn, mà đặt trọn lòng tin vào những pháp tu chuyên nhất, đúng đắn.
Nếu con muốn trau luyện những công phu tu tập đúng đắn chuyên nhất, thì con cũng có hai loại để thực hiện tâm linh: thứ nhất, là những công phu chân chánh, thứ hai, là những công phu phụ trợ. Hãy vứt bỏ mọi công phu phụ trợ mà chỉ chọn lấy công phu phản ánh Trạng Thái Bất Thối Chuyển, ấy là xướng  đọc Danh Hiệu của đức Phật A Di Đà. Trong khi xướng đọc Danh Hiệu, con chắc chắn đạt được sự Vãng Sanh bởi vì con đang nương tựa vào Bản Nguyện của Phật.
Các bậc trí dũng của Tiểu-thừa hoặc Đại-thừa, dù lỡ phạm vào giới cấm, hoặc là nặng hoặc là nhẹ,  thảy đều bình đẳng như nhau trong việc tin tưởng vào Bản Nguyện được tuyển chọn đặc biệt, vì đó là một đại dương công đức giúp họ thành Phật bởi thực hành Niệm Phật.
Đó là điều mà tổ sư Đàm Loan muốn diễn đạt trong tác phẩm đặc sắc của Ngài: “Chú giải Vãng Sanh Luận”:
“Nơi cõi nước thanh bình và hạnh phúc kia, tất cả mọi người đều hóa sanh từ đóa sen thanh khiết của A Di Đà, đấng Giác Ngộ Viên Mãn: với chúng ta, đó chỉ nhờ vào thực hành Niệm Phật, chứ không phải nương cậy một pháp nào khác.


CHÚ THÍCH CỦA JEAN ERACLE
         
          Các vị tổ sư Tịnh-độ chủ trương có hai loại giáo lý trong chánh pháp của đức Thích Ca:
      Thứ nhất: Thánh Đạo Môn, tức là Con Đường Tu Tập Của Thánh Nhân, (bậc thông tuệ) đặt căn bản trên Giới Luật và Thiền Định,  bao gồm nhiều phương tiện có thể thực hiện ngay trong kiếp sống này, nhưng không chắc chắn chứng ngộ hoàn toàn và dứt điểm giải thóat, mà lại tồn tại nhiều chướng ngại dẫn đến sự lui sụt tâm chí và đổ vỡ sự nghiệp tâm linh.
      Thứ hai: Tịnh-độ môn, tức là Con Đường Dễ Thực Hành của Tịnh-độ,  đó là Niệm Phật Vãng Sanh, nghĩa là   người  niệm Phật  chắc  chắn  được  an  lạc,   giải thoát phiền não ngay trong kiếp sống này và thành Phật tại cõi Cực Lạc vào kiếp sắp tới.
      Nếu quyết chọn Tịnh-độ môn, và còn bị chi phối bởi hiệu lực của tương quan nghiệp quả, người ta phải đối mặt với rất nhiều pháp tu khác nhau.
      Kẻ nào nương vào nguyện lực của các vị Phật khác và các Bồ-tát khác, rồi thực hành nhiều loại công phu của nhiều thứ giáo lý khác nhau như: vừa trì chú kiết ấn, vừa thiền quán, kiêm thêm tụng kinh và cả bố thí hành thiện, tích lũy công đức..v..v…thì hạng người này được Thân Loan gọi là kẻ tu hành tạp loạn, vì tham lam và sợ hãi nên đã trộn lẫn đủ thứ công phu và thiện hạnh nên tâm khó được chuyên nhất và thuần khiết.
          Có nhiều kẻ chỉ tập trung hoàn toàn vào Phật A Di Đà và cõi Cực Lạc, chỉ một lòng niệm Phật mà không chen vào bất cứ một pháp tu nào khác, thì Thân Loan gọi người này là kẻ tu hành đúng đắn với công phu tu tập chân chánh. 
          Các kinh điển thông dụng thường hay đề xướng 5 phương pháp tu tập như: đọc tụng kinh điển, thiền định quán tưởng, lễ bái sám hối, bố thí cúng dường  và  xướng đọc danh hiệu A Di Đà. Nhưng ngài Thân Loan cho rằng: chỉ có việc xướng đọc danh hiệu A Di Đà là pháp tu đúng đắn, chân thật, bảo đảm chắc chắn vãng sanh. Các pháp tu kia chỉ là phương tiện phụ trợ. Đây cũng là chủ trương của chư vị tổ sư tiền bối như Thiện Đạo và Pháp Nhiên. Nhưng ngài Thân Loan tuy sử dụng lại tư tưởng trên, đã sửa chữa cho phù hợp với chủ trương của mình: Năm phương pháp tu tập nêu trên, nếu được thực hiện bởi những nỗ lực cá nhân (tự lực), thì sẽ dẫn đến sự tái sanh nơi Cõi Chuyển Hóa (Lâu Đài Nghi Ngờ,  Cung Điện Thai Sen).                               
Nếu với tư tưởng chuyên nhất và lòng tin thuần khiết, chỉ nương tựa vào Bản Nguyện, phó thác hoàn toàn cho Phật-lực, mà xướng đọc danh hiệu A Di Đà,  thì kết quả chắc chắn vãng sanh Cực Lạc, cõi nước chân thật: sự xướng đọc Danh Hiệu chỉ còn là một ấn tượng hoan lạc và tri ân của lòng tin.
      Thân Loan cũng nhấn mạnh rằng, nếu niệm Phật  đặt cơ sở trên trình độ tâm linh của cá nhân, thì không bằng việc niệm Phật hoàn toàn cơ giới - nghiã là Lý Niệm Phật  thì không bằng SỰ NIỆM PHẬT.

Thế nào là Lý Niệm Phật?
      Một người có căn cơ bén nhạy, trình độ học hỏi khá cao, chịu khó nghiên cứu kinh luận, thông suốt Lý Vô Sanh, quan niệm rằng niệm Phật tức là niệm tự tánh Di Đà, giữa Ta và A Di Đà chỉ là Một, không hai, không khác.  Với kiến giải như thế, người ấy khởi tâm niệm Phật.  Đây gọi là LÝ NIỆM PHẬT.  
Thế nào là Sự Niệm Phật  ?
      Một người chăng hiểu biết gì nhiều về những kiến giải cao cấp của đạo Phật, do duyên lành y được các vị thiện hữu dạy rằng “Niệm Phật thì sẽ được Phật A Di Đà cứu độ ngay trong đời sống hàng ngày, và lúc lâm chung sẽ được tiếp rước qua miền Cực Lạc”. Với niềm tin như thế, y khởi tâm niệm Phật thường xuyên  mà chẳng bao giờ thắc mắc, do dự. Đây gọi là Sự Niệm Phật.
Trong hai quan niệm vừa nêu trên, Thân Loan đánh giá cao hành động niệm Phật của người thứ hai. Vì phù hợp với Bản Nguyện và lòng tin trong sạch, nhất là không bị vướng kẹt bởi các khái niệm, dù là khái niệm về Chân Lý Tối Thượng.

(5)
Tận đáy lòng thăm thẳm, tôi tin chắc rằng, nếu không có người cha yêu mến của Danh Hiệu tràn đầy công đức, thì không có nhân tố chủ động để được vãng sanh. Và cũng vậy, nếu không có người mẹ cưng chiều của Ánh Sáng Vô Cùng Tận, thì sẽ không có điều kiện thụ động cần thiết để vãng sanh. Trong khi ấy, dẫu nhân tố kia và điều kiện này được kết hợp nhau, nhưng nếu không có nhân duyên cảm ứng với lòng tin chân thật, thì người ta cũng sẽ không đạt đến Cõi Miền Vô Lượng Quang.                
Nhân duyên cảm ứng với lòng tin chân thật được sử dụng như là nhân tố ở ngay bên trong - mà cha mẹ là Danh Hiệu và Ánh Sáng được kết hợp như những điều kiện bên ngoài. Nếu những nhân tố bên trong cùng điều kiện bên ngoài được giao hội với nhau, thì người ta chứng đắc Pháp-Thân ngay tại Cõi Miền Cực Lạc.

CHÚ THÍCH :
Đoạn văn này chỉ dễ hiểu nếu được đặt vào  ngữ cảnh của giáo lý nhà Phật khi trình bày về những kiếp sống nối tiếp nhau. Theo cách nhìn như vậy, để thụ thai, cần phải có sự đóng góp của tinh cha, huyết mẹ, mà cũng phải có sự tham gia bởi cân tử nghiệp của thai nhi trong kiếp sống vừa rồi - nghĩa là, động lực cần thiết của nghiệp và ý thức trong chập tư tưởng cuối cùng trước khi lâm chung của đương sự ngay khi thay đổi kiếp sống.
Thân Loan thừa nhận ba yếu tố để đánh thức lòng tin:
-         phó thác cho Bản Nguyện, ấy là ánh sáng, được ví dụ như Người Mẹ.
-         khát khao xướng đọc Danh Hiệu: được ví dụ như Người Cha.    
-         cuối cùng, phải có nhân duyên cảm ứng giữa người niệm Phật với lòng tin vào Bản Nguyện.

(6)
Khi bước lên chiếc thuyền Bi Nguyện, người ta lèo lái trên đại dương mênh mông của ánh sáng, trời mây trong xanh, không gian yên lành, dưới làn gió nhè nhẹ của công đức cao cả - thì mọi cơn sóng dữ dằn xấu ác sẽ bị lật nhào, bặt mất tăm hơi. Cho đến khi đêm tối ngu si tan dần, người ta nhanh chóng bước lên bến bờ của Cõi Miền Vô Lượng Quang, chứng ngộ Đại Niết Bàn, và hòa nhập vào hạnh nguyện công đức của Phổ Hiền.    [ . . .]
          Khi nói đến đại dương, tôi muốn nói rằng: nước của dòng sông được hòa trộn giữa những công phu tu tập cùng những thiện hạnh, được gột rửa bởi thánh giả và những kẻ tầm thường từ quá khứ vô tận - và nước biển của vô số lầm lạc tựa như cát sông Hằng bởi những kẻ phạm ngũ nghịch hoặc phỉ báng chánh pháp, hoặc phá hủy gốc rễ hiền thiện: tất cả nước sông nước biển kia thảy đều dần dần được chuyển hóa trong nước mặn của đại dương tràn đầy trân bảo của vô lượng vô số công đức chân thật nhiều hơn số cát sông Hằng, của Trí Tuệ và Đại Từ Bi đã được thực hiện bởi Bản Nguyện A Di Đà.

(7) NIỆM PHẬT
VÀ CÁC PHÁP KHÁC
         
Niệm Phật là vua của các pháp, và danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật là cứu cánh tối thượng, siêu việt, bất khả tư nghị, thì cũng không cần phải so sánh với những pháp khác làm gì, tựa như đã là vua thì làm sao có thể đem phân bì cao thấp với thường dân ?
Nhưng, đứng trên quan điểm của phương tiện, trong thế giới nhị nguyên vẫn tồn tại những hiện hữu đối lập nhau như: niềm tin và nghi ngờ, điều thiện và điều ác, cái đúng và cái sai, xác định và phủ định, thực và giả, chân thật và ảo tưởng, thuần khiết và pha tạp, sắc bén và cùn nhụt, thú vị và khó chịu, cao thượng và phàm tục, ánh sáng và bóng tối. Do đó, xét về quan điểm giáo nghĩa, nếu so sánh Niệm Phật và các pháp khác đang thịnh hành, thì tôi thấy có những tương phản, khác biệt:
1/.Niệm Phật thì dễ dàng. Các pháp khác thì khó khăn.
2/.Niệm Phật thì thành tựu tức khắc. Các pháp khác thì tuần tự từng bước.       
3.- Niệm Phật thì đi băng ngang. Các pháp khác thì đi vòng vèo.             
4.- Niệm Phật như một bước nhảy vĩ đại. Các pháp khác thì như đi bộ thủng thẳng.
5.- Niệm Phật thì thích thú dễ chịu. Các pháp khác thì nặng nhọc lao khổ.
6.- Niệm Phật thì vĩ đại, vì phát huy Phật tánh một cách cùng cực và toàn vẹn. Các pháp khác thì nhỏ bé vì chỉ phát huy phật tánh từng phần.
7.- Niệm Phật thì cao cả, siêu việt, tuyệt vời. Các pháp khác thì cần phải xét lại.
8.- Niệm Phật có những hiệu quả mau lẹ. Các pháp khác thì rất lâu mới có hiệu quả.
9.- Niệm Phật tạo ra những giá trị tiên khởi. Các pháp khác tạo ra những phó sản tâm linh.
10.- Niệm Phật là thuần khiết, chuyên nhất. Các pháp khác thì bị pha trộn, tạp loạn.
11.- Niệm Phật được trình bày bằng trực giác tâm linh. Các pháp khác được minh chứng bằng tương quan nhân quả.
12.-Niệm Phật thì cảm ứng với Danh Hiệu Phật. Các pháp khác là những công phu thiền định hoặc phi thiền định.
13.- Niệm Phật là pháp tối thắng, không có gì có thể vượt qua. Các pháp khác thì dễ bị vượt qua, vì  ở trong vòng tương đối.                  
14.-  Niệm Phật là pháp siêu việt tư duy và diễn tả. Các pháp khác vẫn còn sử dụng ngôn ngữ và hình ảnh để suy tư và diễn tả.
15.-  Niệm Phật mang lại những thành phẩm tâm linh cao cấp. Các pháp khác tác động như một nguyên nhân sơ khởi.
16.- Niệm Phật được truyền dạy bởi A Di Đà. Các pháp khác chỉ được rao giảng bởi các vị thánh nhân khác.
17.- Niệm Phật được chư Phật đề cao, khen ngợi. Các pháp khác không được như thế.
18.-  Niệm Phật không cần phải hồi hướng công đức, vì danh hiệu A Di Đà chính là cứu cánh tối thượng. Các pháp khác thì buộc phải hồi hướng công đức, vì còn nằm trong phương tiện.
19.- Niệm Phật thì thường xuyên được che chở bởi chư Phật (chư Phật hộ niệm). Các pháp khác không phải là đối tượng được che chở bảo bọc.
20.- Niệm Phật được bảo chứng bởi chư Phật. Các pháp khác không phải là đối tượng được bảo chứng.            
21.-  Niệm Phật được dễ dàng truyền thừa. Các pháp khác đòi hỏi nhiều điều kiện khó khăn mới được truyền thừa.
22.- Niệm Phật được truyền bá rõ ràng, dễ dàng cảm nhận. Các pháp khác thì khúc mắc, dài dòng trong việc phổ biến giáo lý.
23.- Niệm Phật thì thực hành giản dị, dễ dàng. Các pháp khác thì phức tạp, rắc rối trong việc tu tập.
24.- Niệm Phật là pháp tu được đức Thích Ca đặc biệt trao truyền trước khi niết-bàn.
Các pháp khác được đức Thích Ca rao giảng bằng những phương thức thông thường.
25.- Niệm Phật vẫn mang lại hiệu quả cho tất cả chúng sanh, dù ở vào thời đại sau khi chánh pháp bị diệt tận. Các pháp khác chỉ mang lại hiệu quả vào thời đại hưng thịnh của chánh pháp.
26.- Niệm Phật là tùy thuận Bản Nguyện của Phật. Các pháp khác thì cách trở với Bản Nguyện vì chối bỏ năng lực cứu độ của Phật.
27.-  Niệm Phật là pháp môn đưa hành giả tham dự vào nhóm người tu tập thiền định chân chánh của đạo Phật (tham dự Chánh Định Tụ).
Các pháp khác thì không xác định rõ là đi về đâu.                 

No comments:

Post a Comment