CÂU TRẢ LỜI ĐÃ CÓ SẴN
TRONG CÂU HỎI
Daisetz
Teitaro Suzuki (1870-1966)
(Hoang Phong chuyển ngữ)
Sau khi D.T. Suzuki
qua đời, hội Phật giáo Hoa kỳ góp nhặt các bài viết cuối cùng của ông để in
thành sách với tựa đề "Lãnh vực của Thiền học Zen" (The Field
of Zen, 1969) và bốn mươi năm sau quyển sách này được dịch sang tiếng Pháp
với tựa đề "Những bài viết cuối cùng bên bờ của cõi trống không"
(Derniers Écrits au bord du Vide, 2010). Dưới đây là một trong số các
bài được tuyển chọn trong quyển sách này.
D.T. Suzuki là một
trong những người đã có công mang Phật giáo nói chung và Thiền học nói riêng
đến với thế giới Tây phương. Thường thì người ta vẫn nghĩ rằng phương Tây chịu
ảnh hưởng nặng nề của một nền văn hóa duy lý và hệ thống lôgic của Aristote và
thế giới Đông phương thì lại thiên nhiều hơn vào trực giác và chiều sâu của tư
tưởng. Như vậy thì D.T. Suzuki đã "lý luận" như thế nào để mang hai
thế giới ấy đến gần nhau? Mặt khác khi tìm hiểu và đi sâu vào Tịnh độ, Phật
giáo Tây tạng, Thiền học Zen... chẳng hạn, có thể chúng ta cũng có cảm giác lạc
vào những thế giới hoàn toàn khác biệt nhau vì tính cách đa dạng của các học
phái ấy. Vậy các học phái ấy có thể dung hòa với nhau hay không? Bài chuyển ngữ
dưới đây cho thấy D.T. Suzuki đã "lý luận" như thế nào để vượt lên
trên sự "lý luận" hầu mang tất cả chúng ta trở về với hiện thực, dù
chúng ta đang ở phương đông hay phương tây, và dù đang bị chi phối bởi cách lý
luận nào.
Người ta thường nói có
sự khác biệt giữa hai cách suy nghĩ của phương Đông và phương Tây. Tuy nhiên
với cương vị con người biết suy tư thì dù sinh ra ở phương đông hay phương tây,
chúng ta không thể nào tránh khỏi không lý luận.
Chẳng hạn người ta nói
như sau: "May quá trời Luân Đôn hôm nay không mưa, nếu mưa thì mặt đất ướt
át, mặt đất ướt thì đôi giày cũng sẽ ngấm nước" (D.T. Suzuki thuyết
giảng bài này tại thành phố Luân đôn). Nếu như đôi giày ngấm nước thì ta
tất sẽ bị lạnh hay bị xáo trộn cơ thể. Đấy là con đường của sự lý luận - mưa,
ẩm ướt, mưa vì mây kéo đến và chuyển thành mưa. Nơi nào cũng thế, dù là phương
Đông hay phương Tây, lý luận theo phương cách ấy đều có thể kiểm nghiệm được,
và khi nào mà sự lý luận được mang ra áp dụng thì giữa Đông phương và Tây
phương không có gì khác biệt nhau ; nhất là không thể nói người Tây phương có
xu hướng lý luận và trong lãnh vực này thì người Đông phương khác hơn, hoặc
cũng không thể nói là mondo (vấn-đáp) trong thiền học zen sẽ dễ
hiểu hơn cho người phương Đông so với người phương Tây.
Quả không đúng thế.
Chính người phương Đông cũng nhận thấy là mondo zen (vấn đáp trong
thiền học zen) thật khó để thấu triệt.
Chẳng hạn như có một
đệ tử hỏi thầy mình cốt tủy của thiền học zen là gì thì người thầy trả lời như
sau: "Ta sẽ giảng cho nghe nếu như ngươi chỉ cần một ngụm là uống cạn con
sông Thames này", (Thames là con sông
chảy ngang Luân Đôn). Điều đó trái ngược với cách suy nghĩ thông thường, và
nếu như chúng ta gọi đấy là một cách nói ẩn ngữ thì đối với người Đông phương
hay Tây phương cách nói ấy cũng ẩn ngữ khó hiểu như nhau. Vì thế thử hỏi là có
chính đáng hay không khi bảo rằng tâm tính người Tây phương thiên về lý luận
còn tâm tính người Á đông thì thiên về trực giác và sự hiểu biết mang tính cách
tự nhiên hơn về mọi sự vật. Thật vô cùng khó khăn để có thể khẳng định được
điều đó.
Tuy nhiên và trước hết
có lẽ tôi nên giải thích thế nào là bản chất của trí năng (intellect).
Trí năng cắt đứt hiện thực ra làm hai: chủ thể và đối tượng; đấy là cách vận
hành căn bản của nó. Khi nào chúng ta còn tự buộc chặt vào sự phân tách đó: tức
chủ thể và đối tượng, thì luôn luôn xảy ra một sự đối nghịch trong lãnh vực
lôgic. Khi lớn lên và đến một lứa tuổi nào đó thì ta thường tự hỏi từ đâu ta
đến đây. Người theo Thiên chúa giáo bảo là Trời sáng tạo ra chúng ta. Đấy là
cách lý luận thường thấy, bởi vì đối với trí năng chẳng có gì có thể tự nó mà
có được ; vật này phải sinh ra từ vật khác, và vật khác lại cũng phải phát sinh
từ một vật khác nữa, và cứ thế, v.v... Lý luận kéo nhau thành một chuỗi dài.
Nếu như Trời sáng tạo ra chúng ta, thì ai sáng tạo ra Trời? Câu hỏi đó hết sức
tự nhiên, để trả lời cho câu hỏi đó thông thường chúng ta bảo rằng Trời tự sáng
tạo ra Trời. Không có vị Sáng Tạo nào khác sáng tạo ra Trời, chúng ta không thể
nào đi ngược lên cao hơn là Trời. Vậy trong trường hợp một chủng loại tại sao ta
không thể dừng lại ở cái ngã hay một cá thể đâu cần phải đi ngược lên đến Trời?
Tại sao phải đi ngược lên và dừng lại ở cấp bậc Trời? Nếu Trời sáng tạo ra thế
giới và nếu Trời không do ai khác sáng tạo ra cả, Trời tự sáng tạo ra mình,
Trời là vị Sáng Tạo ra Trời ; thế thì Trời đã nghĩ gì trong tâm trí khi sáng
tạo ra thế giới? Mục đích của thế giới này là gì?
Trong cuộc sống thường
nhật, dù làm việc gì thì ta luôn nhận thấy có sự hoàn tất của một cái gì đó,
chẳng hạn như một vật thể ; do đó nhất định hành động của ta là một hành động
chủ đích (téléologique - teleologic) tức chủ tâm (cố ý - duy ý),
và như thế chúng ta bắt buộc phải đặt Trời vào sự hữu lý. Như vậy thì với mục
đích nào Trời đã sáng tạo ra thế giới ? Vì không phải là Trời nên chúng ta
không thể trả lời thỏa đáng cho câu hỏi ấy. Trời có một ý đồ (visée - aim)
riêng mà chúng ta không biết, tuy không biết thế nhưng thật hết sức lạ lùng mỗi
khi nghĩ đến Trời thì ta cũng suy nghĩ thay cho Trời. Khi tôi nói
Trời có một mục đích riêng cần phải thực hiện, thế nhưng chúng ta lại chỉ là
người nên không thể biết được cái mục đích ấy là gì, chỉ cần nêu lên điều đó
cũng đủ hiểu rằng có một cái gì đấy trong dự án thiêng liêng của Trời. Nếu
chúng ta hoàn toàn không hiểu gì hết về chủ đề Trời, ý chí của Trời, sự sáng
tạo của Trời, thì chúng ta cũng không thể nói đến bất cứ gì về Trời, về tác
phẩm của Trời, về mục đích của Trời. Khi chúng ta nói đến Trời và công trình
của Trời thì tất phải có một cái gì đó bên trong ta khiến cho ta nghĩ đến Trời,
nếu không thế thì phải dựa vào một sự phỏng đoán thật táo bạo mới dám nói là
Trời có hay không theo đuổi một mục đích. Chuyện ấy vượt khỏi khả năng chúng
ta, tuy thế chúng ta vẫn cứ nói đến nó và xem thắc mắc là một thứ gì thật tự
nhiên.
Đến đây nếu chúng ta
đề cập đến mục đích của Trời khi sáng tạo ra thế giới thì chúng ta cũng có thể
cho rằng đấy là một cách : "thiết lập cõi thiên đường trên địa cầu".
Nếu đúng là Trời có ý định ấy khi sáng tạo ra thế giới và nếu thực sự có cõi
thiên đường trên địa cầu thì chúng ta đáng lý phải hoàn thiện hơn thế này nhiều
chứ ? Nếu mọi việc suông sẻ thì không có chiến tranh, không có kinh hoàng,
chúng ta đang sống trong thiên đường hạ giới. Thế nhưng các bạn có tin rằng
chúng ta đều được hạnh phúc hay không? Hạnh phúc đòi hỏi phải có một cái gì
khác không nhất thiết đưa đến hạnh phúc, hoặc hạnh phúc hiện đến nhưng còn kéo
theo với nó cả khổ đau. Hạnh phúc thật tương đối. Ta thèm khát hạnh phúc, nhưng
mỗi khi đạt được nó ta lại không thỏa mãn, thứ hạnh phúc ấy thật ra cũng không
sung sướng gì cho lắm, và rồi ta lại nghĩ đến một cái gì đó sung sướng hơn. Cứ
như thế nó điều khiển ta triền miên. Vậy nếu như thiên đường được thiết lập (trên
địa cầu này) thì chúng ta cũng chẳng biết phải làm gì. Khổ sở vì buồn chán,
chúng ta chỉ muốn xuống địa ngục ! Địa ngục có vẻ thú vị hơn, lúc nào ta cũng
cảm thấy một sự kích thích nào đó, vì càng khổ đau ta càng ước mơ được thoát
ra. Nếu tất cả mọi sự xảy ra một cách suông sẻ thì sự sống còn có thú vị gì nữa
? Sự sống là một sự kích thích ; khổ đau là một nhu cầu cần thiết cho sự sống.
Người ta thường nói đến hòa bình, sự tự do tuyệt đối, thế nhưng nếu đạt được sự
tuyệt đối của tự do thì chúng ta lại đòi hỏi nó phải được giới hạn. Chúng ta
không thể nào sống được dưới quy chế của sự tự do tuyệt đối. Khi nào còn sống
chúng ta còn phải gặp một thứ gì đó đối nghịch lại nguyên tắc của sự sống - sự
sống và sự hình thành là như thế, thế giới này là như thế.
Trí năng (intellect)
bước theo con đường đó, và khi chúng ta đã đi đến đoạn cuối cùng của con đường
thì hình như trí năng không còn đủ sức thỏa mãn chúng ta được nữa. Trời đứng
vào vị trí khởi nguyên của thế giới nhưng trí năng lại cứ muốn đi xa hơn cái vị
trí đó. Chúng ta không thể nào dừng lại với một sự khởi nguyên duy nhất, sự
khởi nguyên đó đòi hỏi một sự khởi nguyên khác, v.v. Chúng ta bắt buộc phải suy
nghĩ với kích thước thời gian (sự suy nghĩ bao giờ cũng vận hành trong ý niệm
của thời gian - đây là lời giải thích của D.T. Suzuki trong nguyên bản)
và tư duy (pensée - thougth) là trí năng. Chúng ta không bao giờ tìm
thấy sự thỏa mãn theo con đường đó, có nghĩa là trí năng không bao giờ mang lại
một sự thỏa mãn tối hậu khi nào chúng ta vẫn còn phải sống với thời gian, bởi
vì thiếu thời gian chúng ta sẽ không sống được. Sống đòi hỏi phải có thời gian.
Vậy thì không gian là
gì? Các nhà khoa học nói đến hàng triệu và hàng triệu năm ánh sáng, điều đó
vượt khỏi lý trí của chúng ta quá xa. Chúng ta tự cho là hiểu được các con số
thiên văn khổng lồ ấy, nhưng thật ra đấy chỉ là những dấu hiệu mang tính cách
quy ước. Trí năng không đủ sức nắm bắt được chúng. Dù có nói đến hàng triệu năm
ánh sáng thì chúng ta vẫn cho khoảng không gian ấy còn bị giới hạn. Chúng ta
vẫn nghĩ rằng không gian còn xa hơn như thế, vẫn tiếp tục trải rộng phía sau
cái khoảng không gian hạn hẹp đó. Trực cảm của chúng ta về không gian không bao
giờ bị giới hạn. Vậy có phải thời gian mang tính chất phi-thời-gian (intemporel
- timeless), và không gian không hàm chứa bản chất của không-gian-tính (spacialité
- spacial, spaciality).
Người ta thường nhắc đến
một quy luật rất căn bản trong Phật giáo là quy luật nguyên nhân hậu quả - tất
cả mọi hiện tượng đều là nguyên nhân và hậu quả. Nếu ta phải chịu khổ sở vì một
thứ gì đó xảy ra từ một nguyên nhân từ trước gọi là nghiệp, thì nguyên nhân
trước ấy lại cũng có một nguyên nhân khác trước đó đã chi phối nó, v.v... Tuy
nhiên đối với trường hợp thời gian, nếu cứ truy ngược lên ngày càng xa hơn ta
sẽ không tìm thấy nguyên nhân đầu tiên nào cả. Nếu chúng ta bảo rằng nguyên
nhân không có nguyên nhân thì hệ thống lôgic của chúng ta sẽ bị phá bỏ. Chúng
ta thử chọn một nguyên nhân rồi truy ngược lên càng lúc càng xa hơn, đến một
lúc nào đó nguyên nhân ấy không còn nguyên nhân nào khác sinh ra nó. Nếu nguyên
nhân không còn nguyên nhân nữa, thì tại sao ta lại không thể bảo là sự sống mà
ta đang sống không có nguyên nhân? Tại sao lại không thể dừng lại ở đó, thế
nhưng khái niệm về nguyên nhân lại cứ bắt chúng ta phải truy kích nó cho đến vô
tận.
Khái niệm của chúng ta
về thời gian, không gian và quy luật nguyên nhân hậu quả thuộc vào phạm trù của
trí năng, và khi nào ta còn dùng đến trí năng thì nó cũng sẽ không đủ sức để
trả lời cho những câu hỏi mà chính nó nêu lên. Trí năng buộc ta phải nêu lên đủ
mọi thứ câu hỏi nhưng nó lại không trả lời được các câu hỏi ấy, vậy chỉ còn
cách là nó phải tự chôn mình ! Tuy nhiên chúng ta sẽ không bao giờ thấy chuyện
ấy xảy ra. Trí năng vẫn hữu ích trong một lãnh vực giới hạn nào đó : khi trời
mưa thì ta bị ướt - nguyên nhân và hậu quả. Khi phải đi ngược lên mỗi lúc mỗi
cao hoặc tụt xuống thật sâu đến tận đáy thì quy luật nguyên nhân hậu quả không
còn áp dụng được nữa. Đấy là tôi muốn nói đến trường hợp khi ta cho rằng bất cứ
gì cũng có một sự khởi đầu, thế nhưng trên thực tế thì không có sự khởi đầu nào
cả. Tương tự như vậy thế giới không có sự chấm dứt. Nó không chấm dứt vì nó
không khởi đầu và chúng ta sống trong thời gian không khởi thủy cũng không chấm
dứt. Khi nào ta còn duy trì trong tâm trí khái niệm về thời gian, thì khi đó ta
vẫn còn phải đối đầu với quy luật nhân quả, khi nào thời gian mất hết ý nghĩa
thì thời gian mang tính cách nhân quả cũng theo đó mà mất đi ý nghĩa của nó.
Trí năng vận hành bên trong một số giới hạn. Vượt ra ngoài các giới hạn ấy, trí
năng sẽ trở nên vô nghĩa. Nói đến thời gian và không gian là một thứ gì hoàn
toàn phi lý.
Tuy nhiên cách diễn
đạt trên đây vẫn chưa làm cho chúng ta hài lòng. Nếu nói thế giới không khởi
thủy cũng không chấm dứt thì chúng ta cũng chưa vừa ý và vẫn cứ muốn vượt xa
hơn ranh giới đó. Chúng ta phải thường xuyên đối đầu với những thứ mâu thuẫn
như thế cho nên chúng ta chẳng bao giờ vừa ý. Còn chạy theo trí năng chúng ta
còn chui vào cái ngõ cụt ấy. Chúng ta không thể đi xa hơn, cao hơn, thấp hơn,
hay tránh sang một hướng khác. Quả thật hết sức lạ lùng, chúng ta phải dừng
lại nơi mà mình đang đứng.
Tại sao chúng ta lại
cứ phải đặt ra những cây hỏi mà trí năng không trả lời được ? Nếu tiếp tục nêu
lên câu hỏi theo chiều hướng đó thì chúng ta sẽ thấy trí năng thật phù phiếm.
Nó chỉ hữu ích khi đem áp dụng vào điện khí, vật chất, năng lượng, khối lượng,
tốc độ, v.v... Nó giúp chúng ta xây dựng nhà cửa. Luân Đôn cũng đã thành hình
từ các khái niệm về thời gian, không gian, nguyên nhân hậu quả, v.v... Nếu nghĩ
rằng có thể sử dụng trí năng để ngự trị cả địa cầu, vô số hành tinh và thái
dương hệ thì thật là chuyện hão huyền. Nếu trí năng tỏ ra kiêu căng thì phải
loại bỏ nó ngay. Không bao giờ có thể đẩy lý luận đi quá xa ; chúng ta có thói
quen dừng lại, tự giam mình trong bốn bức tường và không ngẩng đầu lên, chỉ lay
hoay tìm cách đi xuyên ngang bức tường mà thôi. Thật hết sức lạ lùng!
Vì thế nên nhiều người
bảo rằng cần phải có đức tin (foi - faith) vì lý luận (raison -
reason) không có một giá trị nào cả. Tuy nhiên chúng ta lại đề cập đến đức
tin một cách thật vô cùng phi lý... Nếu đúng là đức tin phi lý và đi ngược với
lý trí thì đức tin không thể nào tồn tại được ; thế nhưng kinh nghiệm của người
xưa lại cho thấy dù cho đức tin có phi lý đến đâu thì nó vẫn cần thiết. Thế là
chúng ta lại bị dồn vào chỗ phải nghĩ rằng đức tin không phi lý. Một khi đạt
đến giới hạn tột cùng của lý trí thì sẽ có đức tin ; khi lý luận (raison -
reason) đạt đến mức cuối cùng của nó, thì chính mức cuối cùng ấy là đức
tin. Chúng ta không thể đi xa hơn Trời, xa hơn Thần thánh, khởi thủy không có
điểm phát xuất, chấm dứt không hề có giai đoạn cuối cùng ; khi đạt được chỗ tột
cùng thì đấy là đức tin, người Phật giáo gọi đức tin ấy là "trực
giác" hay prajna (Bát-nhã).
Khi nào chúng ta còn
lý luận, thì lúc đó lý trí vẫn còn bị giới hạn. Vượt khỏi các giới hạn đó thì
mới hết dậm chân tại chỗ ; thực hiện được sự vượt thoát đó là nhờ vào trực
giác, tức là prajna hay đức tin. Đức tin không phải là sự tin tưởng vào
một số đối tượng nào đó. Chúng ta thường có thói quen mỗi khi nói đến đức tin
thì tìm cách phóng hiện ra trước mặt một cái gì đó và tin vào đấy, rồi gọi đấy
là đức tin, tuy nhiên theo tôi đức tin thật sự phải là thứ đức tin không có đối
tượng, có nghĩa là tin vào một thứ gì đó không bị đối tượng hóa, vì nó đã vượt
thoát khỏi mọi giới hạn. Khi nào còn có đối tượng thì còn có giới hạn, khi vượt
thoát giới hạn thì đối tượng cũng không còn. Khi đã vượt thoát giới hạn mà vẫn
còn hình dung ra được một đối tượng nào đó thì có nghĩa là ta vẫn chưa hề đạt
đến giới hạn. Tiếp xúc với giới hạn có nghĩa là thực hiện được vô biên. Điều đó
thật mâu thuẫn đối với trí năng nhưng lại là một sự kiện hiển nhiên đối với
trực giác và chính đấy mới là những gì quan trọng hơn cả. Khi nào thực hiện
được thể dạng đó thì nên gạt bỏ hy vọng và trí năng, đấy là những gì chúng ta
chất chứa từ một sự khởi thủy quá lâu đời.
Một người đệ tử mang
hai cành hoa dâng lên Đức Phật. Đức Phật nói: "Hãy ném nó đi". Người
đệ tử hiểu là phải ném bỏ hai cành hoa, bèn vứt bỏ ngay. Đức Phật lại nói thêm:
"Ném nó đi thật xa", người đệ tử hoang mang không biết phải ném cái
gì bây giờ. Đức Phật nói tiếp:"Hãy ném cái tôi của con đi thật xa !"
Làm thế nào người đệ tử có thể tự ném mình đi nơi khác khi nghĩ mình vẫn còn sờ
sờ ra đó? Bởi vì nếu người đệ tử nghĩ rằng mình không còn ở đó thì lấy bàn tay
của ai để ném? Khi người đệ tử nói đến "bàn tay" thì tự nhiên ta nghĩ
đến có một cái gì đó, vì nếu ta không thừa nhận bất cứ thứ gì thì các cành hoa
văng đi đâu và Đức Phật đi về đâu ? (một cách lý luận lẩn quẩn do trí năng
điều khiển). Tuy nhiên tất cả những thứ ấy đều do tác động của trí
năng thúc đẩy mà có. Dù cho chúng ta có thể tự hỏi không biết các dân tộc Đông
phương có chịu ảnh hưởng của lý trí và trí năng hay không nhưng khi đi đến điểm
dừng lại thì họ cũng sẽ không biết phải làm gì, và lúc không còn biết phải làm
gì thì chính lại là lúc đạt được sự hoàn thiện trọng đại nhất.
Tất cả các tôn giáo
đều xuất phát từ điểm đó. Nói đến đức tin là một cách tự đặt mình vào lãnh vực
lạm dụng sự lý luận (ratiocination) khiến chúng ta nghĩ ngay đến một đối
tượng nào đó để đức tin bám vào. Nếu diễn đạt trên phương diện siêu hình thì có
thể bảo rằng toàn thể thế giới này chỉ là một sự tạo dựng của trí năng. Khi nêu
lên điều ấy thì chúng ta có thể nghĩ rằng đấy là một thứ gì vô cùng tối nghĩa,
nhưng thật ra thì không đúng thế.
Một thiền sư Zen có
nói như sau : "Chúng ta không thực sự nhìn thấy một cành hoa, chúng ta chỉ
nhìn thấy cành hoa xuyên qua một giấc mơ. Chúng ta nhìn nhau, người này nhìn
người kia, tương tợ như nhìn thấy nhau trong một giấc mơ". Tốt nhất là
không nhìn thấy một cái gì hết. Khi nào không nhìn thấy bất cứ gì cá biệt thì
đấy là cách mà ta nhìn thấy tất cả.
Đến đây chúng ta sẽ đề
cập đến một điểm khá khó. Trên đây tôi có nói đến "sự tạo dựng của trí
năng ". Khi Đức Phật đạt được giác ngộ thì Ngài đứng trên cương vị của
người nêu lên câu hỏi để cùng với câu hỏi hòa nhập vào nhau. Trước khi thực
hiện được việc đó, Đức Phật từng nêu lên câu hỏi là phải làm thế nào để thoát
ra khỏi chu kỳ sinh tử, câu hỏi vượt ra khỏi Ngài. Ngài nắm lấy nó như là một
thứ gì ở bên ngoài sẵn sàng tiếp nhận một giải pháp do trí năng mang lại. Dù
gắng sức bằng đủ mọi cách Ngài vẫn không đạt được giác ngộ. Ngài tuyệt vọng đến
cùng cực. Khi sự bất lực đạt đến tột đỉnh, không sao tìm ra được giải pháp Đức
Phật không tìm cách vượt ra ngoài tâm thức nữa: với cương vị người đặt câu hỏi
Ngài và câu hỏi đã đồng nhất để trở thành "một". Vì thế không còn có
câu hỏi nào vượt khỏi Ngài để hiện ra như một thứ gì đó với mục đích đón chờ
một giải pháp. Trước đây Đức Phật đi sai đường khi đặt câu hỏi ra bên ngoài
Ngài. Nếu câu hỏi ở bên ngoài Ngài, thì giải pháp cũng phải đến từ bên ngoài,
thế nhưng khi câu hỏi và người hỏi đã trở thành một thì giải pháp lại
hiện ra từ bên trong Ngài. Câu hỏi trước đây khiến Ngài phải lo lắng, thế nhưng
khi câu hỏi không còn làm cho Ngài ray rứt như một thứ gì đó trước mặt, hiện ra
một cách khách quan, và khi mà câu hỏi đến với tôi và tôi đến với nó, đấy không
phải là một sự chuyển động vật lý trong không gian mà chỉ là một thể dạng siêu
hình, và sự đồng nhất hóa sẽ xảy ra, đấy là thiền học Zen. Xuyên qua trí năng
chúng ta có thể thắc mắc: "Làm thế nào chuyện ấy lại có thể xảy ra được?"
Thật là phi lý. Thế nhưng khi có nó là có nó, và sau đấy ta mới có thể
lý luận được. Đấy là con đường tiếp cận của một thiền sư. Khi một người đệ tử
hỏi: "Tôi là ai ? ", vị thiền sư chẳng những không giải thích một lời
nào mà còn đánh người đệ tử, bởi vì đối với sự giác ngộ đặt câu hỏi là một thứ
gì ngu xuẫn nhất, và tên ngu đần nào mà lại chẳng đáng đánh đòn.
Có một trường hợp khá
lý thú về một phụ nữ người Mỹ tên là Helen Keller, bà vừa mù, vừa điếc, lại vừa
câm, thế nhưng người ta cứ cố gắng dạy cho bà ta hiểu là bất cứ thứ gì cũng có
một tên gọi (đối với một người mù, điếc và câm thì tên gọi không mang một ý
nghĩa gì cả). Khi con chó được một miếng thịt, nó biết rằng đấy là thịt,
nếu không còn miếng thịt nào thì nó cũng không thể nói đến thịt, vì muốn chỉ
định "thịt" bằng một tên gọi thì trước đó con chó phải có sẵn một
khái niệm, vậy bắt buộc nó phải là người (chỉ có con người mới biết tạo ra
khái niệm). Khi miếng thịt không còn, nó cũng không hề có một khái niệm nào
về thịt; chỉ định một thứ gì bằng tên gọi là một chuyện đại sự. Khi chúng ta
chỉ định thế giới bằng tên gọi thì thế giới sẽ trở thành hiện hữu.
Khi ta tìm ra một từ
nào đó, thì đấy là điểm khởi đầu của tri thức. Tri thức chính là khả năng tự
tách rời ra khỏi cái ngã. Đức Phật tự tách rời với mình khi Ngài nêu lên câu
hỏi, người hỏi và câu hỏi vượt ra khỏi Ngài. Khi thực hiện được sự giác ngộ câu
hỏi trở về với người hỏi. Thế nhưng nếu câu hỏi không thoát ra từ người hỏi,
thì làm thế nào nó có thể trở về với người hỏi. Sự kiện quay trở về ấy thật cần
thiết.
Đấy là cả một sự huyền
bí: tại sao phải cần nêu lên câu hỏi khi mà câu hỏi phải quay trở về để mang
theo câu trả lời cho chính nó? Nếu như ta cho rằng không hề có chuyện hỏi hay
trả lời nào cả thì đấy chỉ là phản ứng của trí năng. Trên thực tế chúng ta hỏi,
chúng ta nhận được câu trả lời và chúng ta hài lòng. Vỏn vẹn có thế. Và mọi sự
sẽ xuất phát từ đấy.
Vì thế khi tôi nói câu
hỏi trở thành một với câu trả lời thì cũng tương tợ như nói Trời suy
nghĩ thì thế giới hiện ra. Thế giới là tư duy (pensée - thougth) của
Trời, một vài nhà thần học gọi đấy là "ý chí của Trời". Cái ý chí ấy
phát động bên trong Ông ta và ý chí ấy là sự sáng tạo thế giới. Ý chí của Trời
là hoạt động sáng tạo và ý chí tức là tư duy. Nêu lên câu hỏi tức là tự tách
rời khỏi chính mình. Sự kiện muốn chỉ có thể xảy ra khi nào có một cái
gì đó để muốn, vì thế Đức Phật phải tự phân tách mình để nêu lên câu
hỏi. Khi sự phân tách xảy ra thì có tư duy; và cũng như thế, muốn tức là
suy tư, suy tư tức là muốn.
Chúng ta có thể nói
rằng đối với Trời không có sự phân biệt giữa muốn, suy tư và hành
động. Chúng chỉ là một. Cũng thế nếu ta là một với Trời thì ta cũng
là một với ta. Vì thế tất cả chúng ta đều là Trời. Các người Thiên chúa
giáo cho rằng đồng hóa thân xác xương thịt này với Trời (nghĩ rằng ta là thân
xác vật chất tức là tự giới hạn mình trong lãnh vực trí năng - giải thích
của D.T. Suzuki trong nguyên bản) là một điều phạm thánh bởi vì chỉ có Chúa
(Christ) mới có thể là Trời được mà thôi, thế nhưng khi ta gán tính cách
thiêng liêng cho Chúa và cho Trời thì phải có một cái gì đó mang tính cách
thánh thiện trong ta thì ta mới có thể phát biểu như thế. Nếu chẳng có gì thánh
thiện trong ta thì chẳng bao giờ ta có thể nói đến sự thánh thiện.
Đủ sức nêu lên một
câu hỏi tức có nghĩa là câu trả lời đã có sẵn trong ta, nếu không thì chẳng có một câu hỏi nào có thể thốt
lên được. Cũng thế, nói đến Trời có nghĩa là ta có một chút gì đó của Trời
trong ta. Khi nắm vững được điều ấy thì đấy là Shin shu (tu
Tâm) hay cõi Tịnh độ. A-di-đà không phải là một người nào đó sống
cách nay đã nhiều năm và sử dụng prajna (Bát-nhã) để cứu độ tất
cả chúng sinh: chính ta là A-di-đà. Đạt được điều đó là thực hiện được đức tin Shin
(Tâm). Prajna (Bát nhã) phát sinh từ cái ngã của chính
mình. Khi nào vượt ra khỏi giới hạn trí năng của cái ngã hạn hẹp, trói buộc
trong điều kiện, thì cái vỏ ấy sẽ vỡ tung và ta sẽ tìm thấy thực thể của chính
mình và một cái gì đó vượt lên trên cái vỏ tự ngã ấy. Vào lúc đó và từ cái thực
thể ấy, từ cái thể dạng siêu nhiên ấy, từ sự xuyên thấu ấy, prajna dharma (đạo-pháp
bát-nhã) vô tận sẽ phát hiện để cứu độ tất cả chúng sinh. Chúng ta
không bao giờ có thể tự cứu lấy mình được nếu chúng ta chưa cứu được mình một
cách toàn vẹn như là một nhất thể, không phải một nhất thể mang tính
cách cá nhân hạn hẹp mà tất cả các nhất thể cá nhân kết hợp lại thành một tổng
thể ; để rồi từ đó lòng từ bi đích thực sẽ hiển lộ.
Bures-Sur-Yvette,
31.10.10
Hoang Phong (chuyển ngữ)
No comments:
Post a Comment