ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ VÀ PHƯƠNG XÍCH LÔ
Tiểu sử nhà thơ Phương Xích Lô:
Tên Phương Xích Lô do
nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đặt, tên thật anh là Nguyễn Văn Phương, sinh năm 1951,
quê quán Thừa Thiên Huế.
Anh tự giới thiệu:
“Tôi tên là Nguyễn Văn
Phương
Tám mươi kiệt một tại
đường Chi Lăng
Vợ tôi Trần Thị Lệ Hằng
Đầu lòng sinh được hai
nàng xinh xinh”.
Năm 2002 trong dịp
ra Quảng Trị chơi, anh xuống tắm ở đập thủy lợi Triệu Thành, và vĩnh viễn ra đi
ở dòng kinh ấy.
Tác phẩm: tập thơ “Có
những dòng sông” in chung bốn tác giả năm 1992 do nhà xuất bản Thuận Hoá cấp
phép; “Chở gió” xuất bản năm 2002, giấy phép của Hội nhà văn; “Xích lô hành”
năm 2007. Tất cả những tập thơ ra mắt với bạn đọc đều do tấm lòng của anh em và
bạn bè thân thiết xa gần của ông góp sức.
I.- CHUYỆN
TÌNH PHƯƠNG XÍCH LÔ
Mỗi khi nghe tiếng chó sủa
dữ dội trước cổng nhà, thì tôi biết ngay Phương xích lô đến chơi.
Râu tóc bèo nhèo, áo quần
rách toe, đôi khi đi chân trần, đọc thơ rổn rảng và ăn nói phóng túng - sự xuất
hiện của Phương xích lô có thể khiến nhiều người khó chịu. Nhưng anh ta cóc cần
và tôi cũng cóc cần, nhưng anh không thể tiếp tục phớt lờ như vậy mãi nếu bà vợ
của tôi lên tiếng. (Anh ta biết tôi vốn sợ vợ, nên cũng phải kiêng nể bà chủ
nhà kẻo tôi bị vạ lây).
Tôi và Phương xích lô quen
nhau từ thuở trước 1975 tại Đà Lạt, do Trần Nhơn và Huy Lùn dẫn tới giới thiệu,
khi đó tên tuổi của anh chưa hề gắn liền với hai chữ Xích Lô, Hồi đó, mọi người
gọi là Phương Điên. Chẳng ai biết anh ta điên tới cỡ nào, nhưng do cái sự vụ
trốn lính mà anh phải giả điên, lâu dần dường như trở thành biệt danh. Tuy thế,
bạn bè chẳng có ai xem anh là đồ điên, hoặc có thể những người sống quanh anh
đều là đồ điên thứ thiệt nên không có ai thắc mắc cái thằng đi bên cạnh mình là
điên hay không.
Sau 1975, anh làm đủ thứ
nghề lao động chân tay, trừ việc làm thơ mà anh chưa hề xem đó là nghề mưu sinh
thực sự. Thời gian này, tôi bận bịu mua gian bán lậu bên hè phố hoặc đầu đường
xó chợ, nên ít khi gặp anh. Thỉnh thoảng đụng độ anh ta tại một buổi đọc thơ
bên mấy chai rượu đế, hồi đó làm gì có bia, chỉ rượu cũng đủ gây cảm hứng bất
tận cho vô số anh hùng hào kiệt tập tễnh làm quen với Nàng Thơ để khuây khỏa
mối sầu thiên cổ.
Năm 1983, tình cờ gặp anh
ngất ngưỡng trên chiếc xích lô giữa phố Huế, tôi chận lại. Anh bảo: ”Mình vừa
cưới vợ, và mới tậu được chiếc xe này kiếm ăn”. Tôi mừng cho anh, và hôm sau,
tôi lần theo địa chỉ, tìm được nhà anh sau lưng chùa Từ Đàm.
Té ra vợ anh ta cũng là dân
có máu văn nghệ văn gừng, họ gặp và yêu nhau qua lời thơ, giọng hát, tiếng đàn.
Vợ Phương cũng là tay đàn tranh lừng danh trong giới nghiệp dư, bản thân tôi
chưa hề thưởng thức cho nên không dám phẩm bình ẩu tả. Nhưng trọn đời Phương,
có lẽ Nàng là tiên nữ cõi trời với tiếng đàn vi diệu đệ nhất. Trong truyện ngắn
Quỷ Trong Trăng, nhà văn Trần Thùy Mai viết: “Nàng ta chính là Quán Âm Bồ tát
của Phương”. Quả là một nhận xét không ngoa chút nào.
Cũng phải thôi. Nhờ tình yêu
của Nàng, mà anh chàng lãng tử lười biếng mưu sinh, luôn luôn dơ dáy luộm thuộm…
đã trở thành một người đàn ông khá tươm tất, đàng hoàng, đang nỗ lực đi vào nề
nếp bình thường: lao động vất vả để nuôi con, chỉ biết tôn thờ cô vợ và lo toan
gia đình mà thôi.
Khoảng một năm sau, vợ
Phương sinh hạ được hai công chúa, sinh đôi. Nhà có thêm hai miệng ăn, nhưng
nghề đạp xích lô của Phương thì chẳng “nâng cao nghiệp vụ” bao nhiêu, Phương
lại không biết buôn bán chạy mánh gì thêm, nên gia cảnh khá túng thiếu.
Đã thế, mỗi khi nghe có một
bữa rượu ngâm thơ, thì anh vội vã gác xe sau hiên nhà, thay áo quần khá thẳng
thớm đi ngay tới “tửu trường”. Hoặc đôi khi gấp rút quá, không kịp về nhà để
“sửa soạn” thì anh bận nguyên bộ đồ phu xích lô khá bẩn, đến tức khắc cùng bè
bạn, kẻo bỏ lỡ bữa tiệc.
Thời bao cấp, ai nấy đều bận
tâm đến cuộc sống riêng, ai cũng ưu tư “sống qua ngày”. Năm ba năm đi qua rất
nhanh, khi tôi gặp lại anh thì mới biết anh và Nàng đã chia tay. Việc đầu tiên
mà chúng tôi phải chịu trận, là ngồi nghe anh đọc bài thơ mới nhất:
THƯA EM
Thưa em tôi đã khuyết rồi
đêm nao Thằng Cuội khoèo rơi
trái Rằm
bao năm ngậm ngãi tìm trầm
tôi chừ là một dã nhân lạc
loài
Thưa em
tôi đã cạn rồi
dòng sông khát vọng bốc hơi
trăm chiều
chỉ còn lòng đá đìu hiu
mùa khô
tiết hạn
rong rêu cũng vàng
thưa em
tôi đã lụi tàn
không còn rung nổi điệu đàn
năm xưa
chỉ còn chiếc bóng trong Thơ
về bên núi vắng
nằm chờ hoá thân…
Những lúc hội ngộ bên ly
rượu, đàn ông với nhau, ai dám hỏi han chi tiết về “chuyện đời tư của chàng”,
chỉ biết tủn mủn đôi điều khi lắng nghe anh kể trong lúc say sưa.
Té ra anh bị vợ bỏ đành đoạn
để theo một người đàn ông khác. Chuyện thường ngày của cuộc sống, có chi lạ
đâu. Trái tim của người phụ nữ cũng biết thay đổi chứ, nhất là “khi chẳng còn
yêu nữa!”. Nhưng cũng khá lạ lùng, kỳ quặc, bởi vì tình địch của anh cũng chính
là người bạn thân mến trong giới văn nghệ chân trần của anh. (chúng ta có thể
quy nập ẩu như thế này: Té ra giới văn nghê chân trần cũng… khả nghi lắm, cần
nên đề phòng chăng? Nhất là nếu chúng ta có một mụ vợ cũng văn nghệ văn gừng
như ai?)
Lúc ly hôn, anh đọc thơ
trước pháp đình:
Em đến với ta trong thời lãng đãng
Lúc quá mộng mơ em chẳng cần tiền
Qua tháng ngày cọ xát cùng cơm áo
Em nghĩ rằng ta chỉ là một thằng điên
Thế nên,
em lôi ta như lôi một con trâu ra Tòa ly dị
Tình yêu ta gặp phải thiên tai…
Cuối cùng Nàng bỏ Huế ra đi
cùng người bạn tình, còn hai công chúa thì Nàng gởi vào tập tễnh tu hành (làm
điệu) tại một ngôi chùa nhỏ ở Long Khánh. Phương chỉ còn lại chiếc xích lô chia
xẻ nỗi cô độc của mình.
Em đi còn lại một mình
Ta như tượng đá lặng thinh giữa đời…
Tiếp tục đạp xích lô trong
vài năm nữa, rồi anh cũng giao xe lại cho một người em, và trở thành người “tự
nguyện thất nghiệp”, rong chơi khắp nơi, thỉnh thoảng làm thơ đăng báo và lấy
đó làm niềm hứng khởi. Tiền nhuận bút cũng chuyển thành rượu cùng anh em uống
cho vui. Nhưng làm gì đi nữa, Phương vẫn nhớ đến Nàng khôn nguôi.
CUỒNG CA
Ta mơ vào dưỡng trí viện
rồi hát ca không sợ ai kiện
thưa
làm thơ chẳng quản nắng mưa
tặng chim buổi sáng qua mùa
thu hoang
Ta mơ ở truồng đi chơi giữa
phố
người gọi ta là Cổ Lổ Tiên
sinh
tiên sinh bỗng hiện nguyên
hình
là con khỉ đực tênh hênh mặc
cùng
Ta mơ kiếp ăn chùa ngủ miễu
sống hồn nhiên không lo
thiếu lo thừa
điên điên một kiếp cũng vừa
kiếp sau ta sợ, xin chừa…
tái sinh!
Nói vậy, chứ Phương vẫn tiếp
tục điên điên, vẫn mười phương tám hướng lãng đãng hội hè chè chén, khi Đông
Hà, khi Đà Nẵng, Phú Yên, khi hồ Tịnh Tâm khi Cồn Hến sông Hương Vĩ Dạ, chẳng
có ai biết anh điên thiệt hay điên giỡn chơi
Có những lúc uống rượu bên
nhau tại nhà tôi, người em trai tôi là chú Bình cảm thán:
-Anh Phương này, tui thấy
anh là người hạnh phúc nhất trên đời!
Phương tỏ ra vô cùng kinh
ngạc:
- Hạnh phúc chỗ nào?
Bình chợt cười ha hả:
- Anh nghĩ xem: có mấy ai
được như anh? Vợ thì được thằng bạn thân của mình “chăm sóc, che chở trọn cả 19
lô”. Hai đứa con thì được nhà chùa giáo dục, nuôi nấng an toàn và đầy đủ. Còn
anh thì… được bạn bè lo cơm lo rượu khá tươm tất. Sướng như vậy còn kêu than
nỗi gì?
Dường như Phương chợt “ngộ”
ra, cũng hứng chí cười một tràng dài.
ĐỘC TÚY HÀNH
Ta say hề, đêm nay ta xỉn
Ngất ngưởng đi về giữa khói sương
Gõ nhịp ta ngâm bài Tống biệt
Vỗ chai ta hát khúc Hồ trường
Ba ngàn thế giới trong cốc rượu
Bao dung ta ôm trọn vui buồn…
Ta say hề, đêm nay ta xỉn
Chân thấp chân cao lạc phố
phường
Ai có tài đàn như Tư Mã
Còn ai thổi sáo tựa Trương
Lương?
Hãy đàn hãy hát lời man dại
Hãy thổi ta nghe giọng dị
thường
Một kiếp làm người đầy khổ
lụy
Mượn đôi cánh rượu đến thiên
đường
Ta say hề, đêm nay ta xỉn
Đành mượn cỏ cây thay thế
chiếu giường
Ngạo nghễ gối đầu lên đỉnh
Ngự
Ngang tàng xuôi cẳng dọc
sông Hương
Êm như cái nhịp không còn
nhớ
Nhẹ tựa làn mây chẳng biết
buồn
Ta say hề, bây giờ ta ngủ
Chiêm bao ta múa điệu Nghê
thường…
CHẠNG VẠNG
Chạng vạng đất
chạng vạng trời
Tình tôi chạng vạng trong
thời xa em
Mắt nhìn
chạng vạng hơi men
miệng đời chạng vạng chê
khen tiếng lời
Tuổi tên
chạng vạng quên rồi
Đường đi chạng vạng biết nơi
mô về?
Tháng ngày chạng vạng cơn mê
Oán ân chạng vạng bạn bè thờ
ơ
Đôi khi chạng vạng vần thơ
Làm sao nối đến bến bờ một hai
Xin trăng sáng trọn đêm dài
Vén màn chạng vạng phủ đầy
hồn tôi.
Có một điều mà những người
bạn của Phương không phải ai cũng biết: Những lúc buồn hoặc sau cơn say bí tỉ,
Phương thường ngồi dậy, chắp tay xướng lớn “Nam mô A Di Đà Phật” liên tục, cả
trăm lần ngàn lần. Dường như niềm tin vào đức Phật A Di Đà là chiếc phao cuối
cùng của anh, khi mà thơ và rượu không đủ làm cho bản thân anh cảm thấy ấm áp
cho bằng “năng lực siêu nhiên của đấng giác ngộ”. Nhà thơ đôi khi cũng cần được
cứu độ bởi sức mạnh vô hình chỉ được cảm ứng bằng Tâm, phải vậy chăng? Nhất là
những người lạc lòai bên lề cuộc nhân sinh như Phương. Không bao giờ tìm được
lối ra cuối cùng cho bản thân cùng cả một thế giới chữ nghĩa luôn luôn bế tắc.
Một hôm nào đó, ghé nhà giáo
sư Tôn, nghe được một bài thơ của Phương đang được lưu truyền trong giới nhà
chùa:
MỘT MÌNH
Một mình trên đỉnh non Thiền
Lặng nghe đức Phật nói riêng với mình:
Về đi thôi, kiếp phù sinh
Sao không dừng lại, còn lênh đênh hoài?
Phương đã dừng chưa?
Phương sắp dừng chưa?
Phải hỏi thi sỹ Vũ Hoàng
Chương mới biết!
II. - CHUYỆN NIỆM
PHẬT CỦA PHƯƠNG XÍCH LÔ
Tôi lớn hơn Phương Xích Lô
khoảng 4 tuổi cho nên được hắn gọi là Anh. Hắn thường nói nghề nghiệp thật sự
của mình là niệm Phật, còn làm thơ chẳng qua là cho vui, không lẽ cứ niệm Phật
hoài thì không kham nổi. Hắn nói có đáng tin hay không thì có lẽ chỉ mình hắn
mới biết.
Một lần hắn ghé nhà tôi
thăm, trong lúc trà nước, tôi vui miệng hỏi:
- Tại sao ông theo pháp môn
Tịnh độ? Nói thử nghe chơi cho bui, chứ không lẽ tụi tau lại “kiểm tra trình độ
tu chứng” của ông đâu! Mà thật ra ở đây chẳng có đứa nào đủ trình độ để làm tôn
sư của kẻ khác!
Phương vừa cười vừa nói:
-
Tui theo Tinh độ vì thấy pháp môn này rất khỏe.
-
Khỏe chỗ nào?
-
À, khỏe ở chỗ mình khỏi tu hành gì cả vì đã có đức A Di Đà tu giùm rồi!
Mình tha hồ đi rong, muốn mần chi thì mần mới “đã” chứ!
Tôi nghe hắn nói có vẻ ngược
ngạo quá, bèn hỏi vặn vẹo:
-
Ờ được đó. Nếu có đức A Di Đà tu giùm rồi, rứa thì ông niệm Phật để làm
chi?
-
Ô, tui phải niệm Phật nhiều nhiều và liên tục nữa là đằng khác chứ! Vì
sao ư? Đức A Di Đà rất mau quên, hở tí là quên liền, cho nên tui phải niệm danh
hiệu ngài để ngài nhớ đến tui mà tu giùm cho tui nhờ đó chứ!
Tui gật đầu:
-
Nghĩa là ông niệm Nam
mô A di đà Phật chỉ để nhắc nhở ngài tu giùm mà thôi. OK. Tau đây cũng vậy. Chỉ
có cách ấy. Nhờ cậy đức Phật tu giùm là bảo đảm an toàn, tốt đẹp. Không gì hơn
cả.
Là người rất lười đọc sách, nhưng
đối với các sách giáo lý Tịnh Độ thì Phương rất siêng. Nhiều lần đến nhà tôi ở
lại vài ba bữa – có lẽ không có ai chứa chấp nên mới mò đến tui? – Phương tình
cờ vớ được mấy cuốn sách Tịnh Độ mà y cho là “coi được lắm”, hắn bèn ôm sách
nằm đọc và quên cả… rượu!
Tôi ướm thử:
-
Tao có ít tiền, chiều ni kiếm chỗ nào nhậu chơi?
Hắn đôi mắt không rời trang
giấy, càu nhàu:
-
Thôi! Bữa khác đi! Sách hay quá!
Một ngày mùa hè, tình cờ tôi
gặp Phương tại đạo tràng niệm Phật ở Bao Vinh.
Thật ra, khi tôi đang thực
hiện thời khóa niệm Phật, mới phát hiện ra mọt người rất quen đang ngồi phía
bên trái đạo tràng. Khuôn mặt trang nghiêm đang chắp tay thành kính xưng niệm
danh hiệu Nam
mô A di đà Phật. Như một đạo hữu chuyên tu lâu năm. Tôi hơi ngạc nhiên, đi lần
qua. Đúng thằng Phương rồi! Tôi hất hàm hỏi:
-
Đi đâu đó?
-
Ủa, cái anh này. Tui đi niệm Phật không được hay sao? Chỉ có anh mới niệm
Phật thôi à?
Tôi cười giả lả:
-
Thôi, xin lỗi ông! Đùa tí mà! Sao bữa ni rãnh quá vậy?
-
Anh không biết đó thôi. Cần chi bận rãnh, thỉnh thoảng tui cũng tham
gia các đạo tràng niệm Phật để củng cố đức tin – cũng như các anh vậy mà!
Thế là chúng tôi ngồi xuống chiếu
dùng trà và bánh ngọt do gia chủ chiêu đãi. Chuyện trò xoay quanh giáo lý niệm
Phật Tịnh độ. Rồi chúng tôi chia tay vui vẻ, hẹn mai mốt gặp lại cũng ở đạo
tràng này.
Sáng hôm sau, Phương mò ra
Quảng Trị chơi. Phương tắm sông và không ngờ theo dòng đi luôn. Cuộc hẹn vẫn
còn sôi nổi. Bạn bè vẫn còn đó. Và người yêu cũ vẫn còn đó.
Nhưng,
Thành phố Huế bỗng dưng
trống trải. Té ra, giờ này mới biết, mi đi rồi thành phỗ trở nên vắng vẻ lạ
thường. Người và ngợm vẫn còn đó, nhưng tìm đâu ra chàng thi sỹ năm xưa?
Đức A Di Đà vẫn còn neo đợi
chúng ta ở một bến rất gần, ở đâu đó trong lòng ta. Câu Nam mô A di đà Phật
đang lửng lơ trên niềm tin dường như không bao giờ lịm tắt của chúng ta - vâng,
của chúng ta chắc chắn vậy!
Phương ơi, bây giờ mi ở đâu?
No comments:
Post a Comment