VAI TRÒ CƯ SỸ TRƯỚC TIỀN ĐỒ PHẬT GIÁO VIỆT NAM
Thượng toạ Thích Quán Thông
Tiến sỹ - hiện đang định cư tại Hoa Kỳ.
Gần đây, có nhiều bài
phổ biến trên các tạp chí, trên mạng, trên mọi phương tiện truyền thông, đề cập
đến hiện trạng suy đồi trong hàng tăng lữ, về giá trị học thuật ngoại điển, về
mảnh bằng của đời nâng cấp địa vị trong đạo...v...v... Thật ra trạng huống suy đồi
thời nào cũng có, ngay cả lúc đức Phật còn tại thế, vấn đề là tại sao chỉ trách
cứ hàng tăng lữ mà không có ai nhắc tới vai trò của đoàn thể cư sỹ tại gia
trong trạng huống suy đồi đó?
Lời dạy cuối cùng trước
khi đức Phật Thích Ca nhập đại niết - bàn là: “Các ngươi hãy lấy giới luật làm
Thầy” (Vinayo Sasanassa Ayu - The Rule is the Life of the Teaching). Trải qua hơn
hai ngàn năm trăm năm, lời dạy này vẫn còn là mạng mạch của Phật pháp, bất kỳ ở
thời gian hay không gian nào.
Giới luật có hai phần,
phần cụ túc dành cho tăng lữ xuất gia và phần căn bản năm giới dành cho cư sỹ
tại gia. Qua thời gian, Phật pháp phát triển và tồn tại đều nương nhờ vào hai
yếu tố: Tăng lữ và cư sỹ. Hai thành phần này (hay đúng hơn là Tứ chúng: tăng lữ
gồm tỳ - kheo và tỳ - kheo - ni, cư sỹ gồm ưu - bà - tắc và ưu - bà - di) luôn
luôn hỗ trợ nhau như cá với nước, không thể nào tách rời nhau được. Lý do giản
dị và thực tiễn là tăng lữ nương nơi cư sỹ nhờ vào tăng lữ trong những sinh
hoạt tâm linh như học Phật, tu tập, cầu an cầu siêu...v...v.. từ đó Phật giáo
mới tồn tại. Tăng lữ như cá sống trong nước cư sỹ, không có nước thì cá không
thể sống được.
Truyền thống Nam phương
Phật giáo hiện nay phần lớn vẫn giữ nguyên tình trạng hỗ tương liên hệ đó: một
vị tăng trước khi xuất gia phải tìm một gia đình cư sỹ bảo trợ cho phần tứ sự,
trong khi đó cư sỹ vào những ngày lễ thì đến chùa hay tự viện để nghe pháp, tu
học và phát nguyện thọ giới cư sỹ lần nữa. Tại các nước Phật giáo Nguyên thuỷ,
chư tăng ở vùng xa phố thị kinh đô vẫn còn trì bát khất thực, không ăn sau giờ
ngọ và dành nhiều thời giờ để thiền định. Trong khi đó, lúc Phật pháp truyền
vào Trung Quốc là nước có một nền văn minh hoàn toàn khác hẳn với văn minh Ấn Độ
đã phải trải qua rất nhiều thay đổi lớn trong căn bản để có thể hội nhập giao lưu
với hai dòng tư tưởng bản địa là Đạo giáo và Khổng giáo, cuối cùng phát triển tư
tưởng Đại thừa Phật giáo (Phật giáo Bắc phương) đến cực điểm. Nhưng dù có thay đổi
tư tưởng căn bản, thì lời dạy của đức Phật “Lấy giới luật làm Thầy” vẫn không
thay đổi. Do đó, trong lịch sử hoằng bá Phật pháp, lúc nào một vị tăng có đạo
cao có đức trọng cũng đều được các bậc vua chúa hay hàng vương giả trí thức tôn
bái làm Thầy, quy hướng theo và bảo trợ để dễ dàng xiển dương chánh pháp. Rồi
cũng trong tiến trình bảo trợ từ hàng cư sỹ vương giả đó, nảy sanh ra nhiều tệ đoan,
kết thành những bè phái chống đối, mãnh liệt đến độ huỷ diệt Phật giáo.
Trong lịch sử truyền bá
vào Trung Quốc, Phật giáo đã phải trải qua ba lần pháp nạn lớn, gọi là Thời Phế
Phật: Một là Thời Bắc nguỵ, Thái Võ đế (tại vị năm 424-451), Hai là thời Bắc
Châu Võ đế (tại vị 560-578), Ba là thời Hội Xương năm 845 dưới triều vua Võ
Tông nhà Đường, lần này là trầm trọng nhất đến độ chỉ hơn một trăm năm sau, khi
Đường Huyền Tông kế vị và sắc lệnh cho phục hưng Phật giáo thì các tông phái
lớn như Hoa Nghiêm tông, Pháp Hoa tông,Tam Luận tông hầu như tan rã hoàn toàn
chỉ có Thiền và Tịnh Độ tông là có cơ ngơi khởi sắc thêm. Phật giáo Trung Quốc
từ đó dậm chân tại chỗ, không phát sinh thêm tư tưởng gì mới, để rồi dần dần
hội nhập vào tư tưởng tam giáo đồng nguyên. Phật giáo bắt đầu quần chúng hoá,
và một phó sản tiêu cực của nó là vai trò của tăng lữ được thần thánh hoá, như
là những nhà phù thuỷ có thế lực thần quyền trừ tai giải nạn cho bình dân bá
tánh.
Phật giáo Việt Nam may
mắn không gặp những nạn phế Phật như thế, nhưng biến cố 1963, phần tích cực dĩ
nhiên nhưng yếu tố tiêu cực cũng không thiếu, đã khiến cho một số tăng lữ bị
choá mắt trước hào quang chói lọi giả tạm của một cuộc cách mạng không đổ máu,
cho nên đạo đức nền tảng bị băng hoại, kéo dài cho đến ngày nay.
Cho nên những bài viết
nói về tình trạng suy đồi trong tăng lữ hiện đại, tại quốc nội cũng như hải
ngoại, cũng không phải là vấn đề mới mẻ. Duy một điều là các vấn đề đặt ra đều
xoay quanh hành vi sinh hoạt của tăng lữ, phần lớn do một số cư sỹ than thở
viết ra, nhưng hầu như chưa thấy ai nêu lên vấn đề và vai trò trách nhiệm của cư
sỹ trong tiến trình hộ pháp hộ tăng.
Thành phần cư sỹ ý thức
thì thở than khi tăng lữ suy đồi, thành phần cư sỹ dễ tin, nhất là dễ sợ - sợ
phạm tội - thì mù quáng chiều chuộng theo những dục vọng của nhóm tăng lữ hủ
bại.
Ở vào thập niên 60 thế
kỷ 20, chỉ có một ít học tăng được du học Ấn-Độ... làm văn hoá và giáo dục dĩ
nhiên phải có một kiến thức căn bản và giáo dục dĩ nhiên phải có một kiến thức
căn bản và chuyên môn, cho nên hiện tượng có hơn 200 tăng ni đang du học tại Ấn
Độ ngày nay là một điều đáng mừng cho tiền đồ Phật giáo. Thế nhưng lại có một
học tăng lớn tiếng tuyên bố: “Không cần biết Hán văn, chỉ cần giỏi Phạn ngữ,
Pali là đủ, Hán học không cần thiết!”. Quả là tiếng kêu hơi ngông của con ếch
còn ngồi đáy giếng. Ngay cả Hoà thượng Thích Minh Châu khi phiên dịch Đại tạng
Pali sang Việt ngữ mà còn phải tham khảo với các bản Hán, Anh để bản dịch của
ngài được hoàn chỉnh!
Có một số tăng ni từ
Việt Nam qua Mỹ theo diện du lịch, xin ở lại nói là để học nhưng đa số đi “làm
chùa riêng” ở những vùng không cần thiết, để hưởng nhàn. Số tăng ni khác sau
vài năm kham khổ không nổi tại Ấn Độ cũng chạy sang Mỹ mượn tiếng là đi tìm tài
liệu, rồi tìm cách định cư bất hợp pháp luôn và nhiều vị cũng “đi làm chùa”
lung tung khiến tiêu hao tài vật của đàn-na thí chủ. Những người đó rồi sẽ đóng
góp được gì cho Phật giáo Việt Nam
khi bản thân họ đang chỉ biết hưởng thụ nhưng kỹ thuật tiên tiến nhất của thế
kỷ 21? Mỗi người có một cái laptop - máy vi tính xách tay - (không phải để lôi
từ trên mạng xuống những bài vở có giá trị giúp ích cho sở học), một cái
cell-phone - điện thoại di động -, (không phải để liên lạc cùng thiện trí
thức), một chiếc xe bóng nhoáng, (không phải để đi làm Phật sự).
Nêu lên câu hỏi trên,
chúng ta chỉ trở lại câu hỏi lần nữa: Những kiến thức ngoại điển đó, có giúp
ích gì được cho cuộc sống nội tâm của một tăng sỹ trên đường tìm giải thoát hay
không? Hay là mang hình thức mới, mang đạo và đời, cư trần lạc đạo? Cho nên tất
cả giáo trình đào tạo tăng tài cho Phật giáo Việt Nam cần phải đặt lại, nói
chung là một tu sỹ phật giáo (tăng hay ni) không những phải thâm đạt một bộ môn
nào đó trong Phật học (nội điển) mà còn phải học qua các bộ môn khác thực tiễn
trước xã hội như: tâm lý học, xã hội học...
Đề nghị này cũng không có
mới mẻ gì, bởi vì trước đây không lâu, cố H.T Thích Trí Thủ cũng viết bài: “Thử
vạch một quy chế cho Tăng sỹ và một chương trình đào tạo Tăng - sinh thích ứng
với nhu cầu của giáo hội trong hiện tại và tương lai gần”.
(Trích toàn tập Tâm Như
Trí Thủ, Quyền I, các trang 678-697). Bài này bao quát nhiều vấn đề và bộ môn hơn,
có thể tóm lược như sau:
1. Trụ Trì Tăng: Lãnh đạo
một tự viện.
2. Công Đức Tăng: Củng
cố thực chất (tu trì, niệm Phật, toạ thiền...)
3. Thiệp Thế Tăng: Kéo đời
vào đạo như Hoá ngoại, giảng pháp...
4. Giáo Huấn Tăng: đem đạo
vào đời: Văn hoá, giáo dục.
5. Nhiếp Hoá Tăng: Tích
cực nhập thế: Công tác xã hội...
Mỗi ngành cần có một
hội đồng quản trị của ngành về chuyên môn, bởi vì một vị tăng dù tài cao học
rộng tới đâu cũng không thể nào bao quát hết mọi phương diện của Phật pháp.
Có thể nói, đề nghị này
đã được Phật giáo Tây tạng tích cực thực thi rồi. Trong thập niên pháp nạn
1950, sau khi vượt biên đến Ấn Độ và được chính phủ Ấn Độ cho một khu đất hoang
tàn, nay được biết đến là Dharasamla, Phật giáo Tây tạng đã biết dĩ tịnh chế động,
biết âm thầm đào luyện tăng tài trong thập niên 60: những người có thế trí biện
thông, biện tài vô ngại, thì chuyên luyện về thuyết giảng (Thiệp Thế Tăng),
những người muốn nghiên cứu hay dịch kinh thì có nơi để ngồi yên mà viết lách
dịch thuật (Giáo Huấn Tăng) - hiện nay 2 bộ Đại tạng Kanjur và Tanjur của Tây
Tạng đã được phiên dịch toàn bộ sang Anh ngữ, hơn 20 năm qua. Nhưng có một số
có lẽ cũng không ít Công Đức Tăng, vô danh tăng đang lặng lẽ thiền định trong
những nơi hoang vắng trên đỉnh Tuyết sơn, trong những ngôi chùa đèo heo hút
gió, để làm nóng cốt thực chất cho những Thiệp Thế Tăng ngoài kia. Những người
Thiệp Thế Tăng thành công một phần nhờ vào tri thức căn bản về Phật học, nhờ
biện tài vô ngại, nhưng phần lớn là nhờ vào đạo đức trang nghiêm, hành trì cẩn
mật, nhờ chất lượng nóng cốt từ những Công Đức Tăng kia. Số lượng Phật tử Tây
Tạng quá ít, tăng đoàn chỉ nhắm đến người Tây Phương và đã thành công có thể
nói là rực rỡ, qua hình ảnh của một đức Đạt-lai Lạt-ma, được trọng vọng như một
giáo hoàng của Phật giáo toàn cầu, ngoài điều mà ngài đã được tôn xưng là đức
Phật sống. Phật giáo Việt Nam có lịch sử trải dài hơn 2000 năm, có được một vj được
đề nghị giải Nobel Hoà bình và một vị được các lực lượng chính trị hải ngoại
hứa cuộc là sẽ được giải Nobel, trong nay mai!
Quá trình lịch sử cho
thấy, chính cư sỹ mới là thành phần nóng cốt trong sự nghiệp phát triển Phật
giáo cho nên mới có câu: “Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác”. Phải
chăng, chính trong tinh thần đó mà thái độ “cư trần lạc đạo” của Trần Nhân Tông
đã sống động trong thời kỳ hưng thịnh Lý - Trần? Và cũng với tư tưởng đó mà
hiện tại có rất nhiều vị tăng trẻ hăm hở tình nguyện làm Thiệp Thế Tăng mang đạo
vào đời, hay đang tự để cho đời làm hoen áo đạo? Tại hải ngoại hiện tượng mỗi
thầy một chùa, ai có giọng tụng kinh hay, hoặc tổ chức được các khoá tu học như
Bát quan trai, đạo tràng Pháp Hoa (tụng kinh Pháp Hoa được nhiều phước!)... thì
chùa đó có đông Phật tử, dĩ nhiên có tiền nhiều vào trong túi riêng, trong khi
giới thứ 9 đức Phật dạy rõ ràng: Không được cầm giữ vàng bạc. (thật ra họ có
giữ đâu, nhà băng giữ giùm mà!). Một vị tăng sỹ trẻ tuổi, rất khá Anh văn, có
thể mở lớp dạy thiền cho người Mỹ, nhưng khi được khuyên nên nhắm đến truyền bá
cho Phật tử ngoại quốc, cũng phải nhìn nhận rằng: “Không có Phật tử Việt Nam
thì không sống nổi!”
Đó là tình trạng thuần
thành của giới Phật tử cư sỹ, ủng hộ tăng lữ hết mình. Nhưng còn bản thân tăng
sỹ thì sao?
Cư sỹ Phật tử sống
trong một mâu thuẫn biện chứng kỳ lạ đến độ kỳ diệu: nuôi dưỡng tăng lữ, rồi
lại quỵ luỵ tăng lữ...
Một ông thầy nào đó
phạm giới, đáng lý phải nên xa lánh thì lại chỉ trỏ rỉ tai, sợ phạm tội, ngao
ngán thở dài, rồi bỏ đạo!
Đạo Phật không sai, chỉ
có những người khoác áo tu sỹ đi sai, làm sai, nói sai. Những thành phần đó là
những con trùng sống trong mình sư tử mà ăn thịt lại sư tử, cần phải bốc ra
loại bỏ. Đạo Phật là đạo từ bi, nhẫn đến con kiến cũng không hại, nhưng nếu
muốn con sư tử sống còn để rống lên tiếng sư tử hống, thì phải biết vạch lông
tìm bắt từng con trùng sâu trên mình sư tử mà bỏ đi. Không ai có thể huỷ diệt
Phật giáo ngoài chính một số ít thành phần ung thối đó trong tăng ni. Lẽ dĩ
nhiên trong tăng lữ vẫn còn rất nhiều bậc đạo cao đức trọng, cho nên cư sỹ cần
phải dũng cảm, cần dùng trí tuệ sáng suốt vốn là điều kiện tiên quyết trong
Phật pháp để mà gạn lọc được viên ngọc kim cương sắc bén giữa cát sạn bẩn nhơ.
Chiếc áo không làm nên thầy tu!
Đời nhà Thanh, vua
Thuận Trị đã làm một bài thơ trước khi rời hoàng cung xuất gia làm tăng:
Trầm vi đại địa sơn hà chủ,
Vi quốc vi dân sự chuyển phiền,
Bách niên tam vạn lục thiên nhật,
Bất cập tăng gia bán nhật nhàn!
Tạm dịch:
Trẫm tuy là chủ nhân
của giang sơn rộng lớn,
Vì nước vì dân mà chịu
nhiều phiền luỵ
Dù làm vua trọn ba vạn
sáu ngày đi nữa,
Chẳng bằng nửa ngày
nhàn hạ của ông tăng!
(Đại ý: Trọn đời làm
một ông vua cũng chẳng vui sướng hạnh phúc bằng nửa ngày nhàn hạ của ông thầy
tu!)
Ngày nay, thử hỏi cuộc
sống mấy ai biết hưởng thú nhàn hạ chỉ trong nửa ngày của cuộc đời tăng?
Từ ngàn xưa đức Phật
dạy: Cư sỹ có bổn phận cúng dường tứ sự cho chư tăng: Thức ăn uống, thuốc
thang, chỗ ngủ nghỉ và y phục. Không lao nhọc mà đầy đủ như thế rồi, nếu dành
hết thì giờ để ngồi thiền, tụng kinh, niệm Phật, bái sám... hoặc đọc sách, dịch
kinh, tư duy lời Phật dạy, thì biết bao nhiêu là nhàn hạ, đâu những chỉ nửa
ngày?
Y phục, tử là ba bộ y,
vừa đủ để mặc. Ngày nay tăng ni không biết là bao nhiêu bộ, lại dùng loại hàng
lụa thứ thiệt tốt. Chỗ ngủ nghỉ, tức là chùa chiền, tu viện, tịnh xá, có nghĩa
là Phật tử cúng dường chung để bảo trì chùa làm nơi ngủ nghỉ tu hành cho tăng
ni, không phải cúng dường riêng cho một người nào để lập chùa.
Thức ăn, có thể ăn ngày
3 bữa, không cần khất thực theo truyền thống, nhưng phải biết tiếc từng hạt cơm
từng miếng rau do cư sỹ dâng cúng, nhiều chùa ăn dư buổi trưa thì đổ vào thùng
rác, buổi chiều nấu thức ăn khác! Thuốc thang, có nhiều Bác sỹ Phật tử trị bệnh
miễn phí, những bệnh thông thường mà còn là con người thế nào cũng mắc phải,
chứ không phải chữa những bệnh vi phạm giới cấm mà phát sanh ra.
Tình trạng chùa chiền
chen chúc nhau mọc lên như nấm tại vùng quận Cam (Orange County, California)
cũng là do nơi cư sỹ đã quá đà trong việc ủng hộ tăng ni, phần lớn là còn trẻ
nhiều sinh lực, có tài ăn nói không thua một salesman (nhà kinh doanh, người
bán hàng), dùng những danh từ Phật học trống rỗng thật kêu (thiền giả gọi là
“bắn bổng”) để ăn khách, không khác nào là diễn viên trên sân khấu cho khán giả
cư sỹ khen rộ vỗ tay.
Rồi cũng chính cư sỹ đã
thần thánh hoá tăng lữ. Phật tử thường hay than phiền vị thầy này, ni cô kia,
nhưng lại nơm nớp lo sợ là “nói động đến họ thì mang tội”. Đọc lại các kinh điển
do chính đức Phật dạy, có kinh nào đức Phật bảo phải tôn sung tăng lữ như vậy
hay không? Tất cả, từ kinh Pháp Hoa, Kim Cang cho đến Viên Giác, Hoa Nghiêm... đều
là chỉ bày chân lý và tự thân thực chứng (ông tu ông đắc, bà tu bà đắc), ngay
chính đức Phật cũng không chịu để cho ai sùng bái ngài “Các ngươi hãy tự mình
thắp đuốc lên mà đi, Ta chỉ là người chỉ đường”. Thì sao lại phải sợ mang tội?
Một ông thầy tu, ngoài
cái đầu không tóc và bộ áo nhật bình ra vẻ đường đường tăng tướng, thật thế
cũng chỉ là một người bình thường, cũng có lục dục thất tình như mọi người.
Ngoài số lớn trì giữ giới luật nghiêm mật - thành phần này không có xe hơi,
không có cell-phone nhưng có nhiều băng giảng pháp chân chính hay các bộ kinh điển
dịch thuật đúng nghĩa - số còn lại thì cũng chỉ là những người tập tễnh trên đường
tu đạo mà thôi. Chữ tu có nghĩa là sửa đổi (tu chỉnh), một người sanh ra bản
tánh có thể là sân giận, nói nôm na là tánh nóng (hay nổi nóng), sau quá trình
tu tập hoặc thiền định hoặc niệm Phật vài ba mươi năm, đến cuối đời mà vẫn
không bớt tánh nóng đó đi được một phần nào, thì công phu tu tập ở đâu? Làm
thiền sư dạy trăm ngàn người ngoại quốc thực hành an lạc, thư giãn, hít thở cho
tĩnh lặng, mà video nhiều chỗ chiếu lên gros plan (cận cảnh), gương mặt nhăn
nhó nhiều phiền não, không phải ưu sầu cho thế sự, mà là một bầu tâm sự sôi sục
trong lòng, thì định nghĩa thiền sư phải như thế nào?
Nêu lên những tiêu hoại
như trên, không phải là để đả kích mà là để kêu gọi một hưởng ứng như là ôm
mộng đội đá vá trời, kêu gọi hàng ngũ cư sỹ xin hãy khoan vội đổ lỗi cho hàng tăng
lữ, mà cần thấu hiểu và áp dụng giới luật do chính đức Phật dạy để hộ trì và
thực thi chánh pháp. Con đường trước mặt là, cư sỹ cần phải làm một cuộc cách
mạng để:
1.- ĐẢ PHÁ TÔN SÙNG THẦN TƯỢNG NƠI NGƯỜI TĂNG SỸ.
Bởi vì tăng sỹ cũng là
con người, còn đủ thất tình lục dục, chỉ có mảnh áo tràng và giới luật là bảo
vệ cho họ còn là một người cao quý hơn cư sỹ một nấc, chỉ một nấc thôi. Họ
không phải là thần thánh, cũng không đại diện cho thần thánh để giải trừ tai ương
khổ nạn cho chúng sanh. Tăng sỹ nhất là từ một vài đạo tràng uy tín ngoài Huế,
thường có thái độ như ta đây là “thiên nhơn chi đạo sư”, còn tăng lữ dầu là
những người đạo rất cao, đức rất trọng đã đạt được vài quả vị trên đường giải
thoát rồi, cũng vẫn còn là con người bình thường, hà huống những hạng bê bối,
phạm đủ thứ “ba-la-di” (ba-la-di nghĩa là Tăng Tàn, ai phạm giới này là phải bị
trục xuất khỏi hàng ngũ Tăng-già).
Những bậc đáng tôn kính
là những bậc long tượng theo đúng nghĩa (“thượng hoằng Phật đạo, hạ hoá chúng
sanh)”, thế nhưng còn hạng kia, trước kia đã không theo đúng đường đức Phật dạy
rồi, thì sau lấy cái gì để dạy dỗ chúng sanh? Chỉ cái đầu tròn cái áo vuông và
một giọng tụng kinh hay, chưa đủ. Đừng quên câu “nhược dĩ sắc kiến ngã...”
2.- KIỂM THÚC VIỆC CÚNG DƯỜNG
Những gì tăng sỹ do cảm
tình cá nhân yêu cầu mà không cần thiết cho sự phát triển tâm linh của họ, thì
cần phải từ chối. Thí dụ, một vi tăng trẻ, cần một cái cell-phone để làm gì? Để
liên lạc với Phật tử? Chỉ trong hai giờ đồng hồ, một vị tăng nói chuyện trên
cell-phone 3 lần, đều là với nữ cư sỹ, mỗi người trên nửa tiếng đồng hồ. Nói
chuyện gì? Chắc chắn không phải là thuyết pháp! Trong hai giờ ấy, nếu biết giữ
giới, tu thiền, niệm Phật thì công đức biết bao! Ngày nay, chính những cái dư
dã đó đã khiến tăng sỹ sa đoạ, cho nên chính cư sỹ làm hư thầy!
3.- SÁNG SUỐT TRONG KHI PHÁT TÂM CÚNG DƯỜNG
Một vị tăng sang Nhật
Bản học vào đầu thập niên 70, không học hành nên gì, qua thăm Mỹ lần đầu giữa
những năm 80, nói: “Tôi sắp lên máy bay rồi mới cạo đầu lại!”... đó chính là
lời ông ta tâm sự với một vị thầy khác.
Đầu năm 2006 trở lại,
ông ta đã trở thành Hoà Thượng, kêu gọi xây chùa tại Nhật, quyên được hai ba trăm
ngàn đô la.
Đất Mỹ quả thật quá phì
nhiêu, lòng người Phật tử rất thuần thành rộng rãi. Có biết nơi xứ Nhật, một tăng
sinh ngoại quốc giới hạnh đầy đủ còn chưa có thể được tạm trú trong một ngôi
chùa Nhật để tu học, làm gì có chuyện cho phép thầy tăng ngoại quốc cất chùa ở đó?
Nhật Bản cũng không phải là quận Cam dễ dãi,
thiên hạ chen chúc nhau lập chùa! Ông ta cũng gần 70 rồi, nếu có thể lập chùa đi
nữa, bao giờ mới xong? Lập xong rồi, thầy sẽ tụng kinh giảng pháp cho ai? Cho
người Nhật à? Vậy nên, tuy phát tâm cúng dường là một phước báu nhưng người cư
sỹ cũng phải suy lường đến kết quả của sự cúng dường đó.
Phải biết dùng trí tuệ,
là một món phước báu lớn trong đạo Phật, để nhận định mà cúng dường đúng theo
chánh pháp. Đừng có ý nghĩ tiêu cực rằng: “Tôi phát tâm cúng dường là tôi được
phước, còn ông thầy tu làm bậy với số tiền cúng dường đó thì ổng mang tội ráng
chịu!”. Người xưa còn có câu: “Nối dáo cho giặc”. Vậy xin hãy thận trọng.
4.- TÍCH CỰC THAM GIA CÁC CÔNG TÁC THUỘC XÃ HỘI, Y
TẾ, GIÁO DỤC, VĂN HOÁ...
Điển hình về những công
việc cứu tế từ thiện phải do cư sỹ đảm đương, vị Thầy chỉ đứng tên kêu gọi bởi
vì có uy tín, nhưng vị Thầy đó không được đụng tới những đồng tiền đó (giới thứ
9). Ai là người đã mượn danh nghĩa cứu trợ nạn lụt vùng đồng bằng Sông Cửu Long
để bỏ vào túi riêng một ít tiền đó? Hãy noi gương của Ni sư Chứng Nghiêm bên Đài
Loan, hội Tư Tế của bà đã có mặt khắp nơi trên thế giới, những kiện hàng cứu tế
đầy ăm ắp trong kho chờ khi nơi nào có thiên tai nhân hoạ là sẵn sàng chất lên
máy bay ngay. Ni sư chỉ ra đứng làm lễ chứng minh rồi nhường lại cho cư sỹ đảm
trách phần thể hiện lòng từ bi chân thật của đạo Phật. Cư sỹ bảo trợ là những đại
thương gia tài sản kếch sù, họ cần một bậc chân tu chứng minh cho công tác từ
thiện của họ, đây là không kể Ni sư cũng là chứng minh đạo sư cho một trường đại
học y khoa (tuy bà không có cấp bằng bác sỹ), đào tạo những tăng ni bác sỹ y tá
với mục đích thực hiện những giáo lý từ bi thiện nguyện của đức Phật.
Phật tử Việt Nam ngày nay không thiếu những cư sỹ có nhiều phương
tiện vật chất, có đầy đủ đạo tâm,... có dư thừa tình thương như thế, sao không
có được một Ni sư Chứng Nghiêm cho Việt Nam ?
Nói về tham gia chính
trị. Thì cư sỹ mới phải làm chính trị, để bảo vệ Phật pháp. Cá nhân tăng lữ
không nên vì một cái ngã, (đáng lý là mục tiêu cần tiêu diệt trên đường tu đạo),
mà dẫn dắt cư sỹ vào đường chính trị rồi cứ hô hào là mình không làm chính trị.
Giới phạm thứ tư!
Tăng sỹ cũng không nên
y áo chỉnh tề sì sụp lễ lạy và hôn nhẫn giáo hoàng Công giáo La-mã để cầu viện đồng
minh chính trị! Tăng lữ cũng không nên để cư sỹ xỏ mũi để xum xuê làm những con
múa rối cho một tập đoàn cư sỹ “Made in Paris ”
giật dây, đã “nội bất xuất, ngoại bất nhập, bị kềm kẹp? thì làm sao có những văn
thư Viện trưởng này, Đại lão hoà thượng nọ rập rềnh trên những phương tiện
truyền thông ngoại quốc và cám ơn đầy đủ tên tuổi những cơ quan toàn cầu
(global), những nhân vật chính trị nổi tiếng thế giới?
5.- GIỮ THÁI ĐỘ BÌNH NHIÊN VÀ BAO DUNG TRƯỚC NHỮNG
VỊ TU XUẤT:
Nhờ đủ nhân duyên mà
một người còn là tăng sỹ (chân chánh), nếu nghiệp quả lôi kéo nửa đường phải
xin giải y một cách đàng hoàng, thì cư sỹ cần phải hoan nghênh họ trở về với cư
sỹ đoàn, tham gia những công tác đóng góp... trong vai trò của cư sỹ cho Phật
pháp. Đã có nhiều thái độ trái nghịch của một số cư sỹ mù quáng, khi một người
thầy tu giải giới thì chế giễu, phỉ nhổ khiến vì mặc cảm mà vị đó bỏ chùa bỏ đạo.
Phật pháp mất đi một cư sỹ có khả năng!
Ngược lại, một vài
thầy, danh tiếng vang dậy, che đậy giới phạm thứ ba (tăng tàn), sanh con đẻ
cái, mà vẫn chễm chệ leo lên ngồi ghế cao để nhận sì sụp bái lạy của một số cư
sỹ thuần tín. Có bao nhiêu con hoang (thật ra không phải con hoang, bởi vì
chúng biết có mẹ có cha, mà không thể gọi một tiếng cha, còn đau khổ nào bằng),
nếu ông thầy kia biết tàm quý, danh lợi trong cổng chùa cũng không cao cả linh
thiêng bằng tình cha con máu thịt, để được tự nhiên vuốt tóc gọi một tiếng con
(đau khổ nào hơn), thì thanh tịnh biết mấy cho hàng tăng lữ!
Cá phải sống nhờ trong
nước, nhưng mà nước đục thì cá có thể chết. Nếu cư sỹ là nước thì phải là những
thứ nước trong sạch, để trưởng dưỡng cá “Tăng”, bằng không, cá chết rồi mà nước
tuy vẩn đục nhưng vẫn còn có thể là nước. Đây không phải là một cuộc cách mạng
bạo lực, mà cư sỹ phải ý thức vai trò hộ pháp của mình, hộ trì chánh pháp chứ
không phải hộ tăng (nhất là những vị tăng tàn), mặc dầu tăng là những người
truyền bá chánh pháp.
Cuộc chấn hưng Phật
giáo đầu thập niên thế kỷ 20 do Thái Hư đại sư lãnh đạo (ở Trung Quốc) cũng do
vì tình huống tăng lữ thời ấy quá hủ bại. Nay nếu trong giáo đoàn tăng lữ không
ai dám, hay không có thể - vì không có giáo quyền - để tiếp tục công cuộc chấn
hưng Phật giáo, thì cư sỹ phải là đoàn thể có trách nhiệm và có bổn phận chấn
chỉnh tăng - già.
Bởi vì cư sỹ là những
vị hộ trì tăng lữ để nối truyền mạng mạch Phật pháp, cư sỹ có quyền (có tiền là
có quyền) và có khả năng (tất cả phương tiện không nằm trong 5 giới cấm của cư
sỹ) để thực thi sứ mạng đó.
Mong thay!
Thượng
toạ Thích Quán Thông.
Tiến
sỹ - hiện định cư tại Hoa Kỳ.
No comments:
Post a Comment