Blogroll

Wednesday, April 9, 2014

VAI TRÒ CƯ SỸ TRƯỚC TIỀN ĐỒ PHẬT GIÁO VIỆT NAM - Thượng toạ Thích Quán Thông

VAI TRÒ CƯ SỸ TRƯỚC TIỀN ĐỒ PHẬT GIÁO VIỆT NAM

Thượng toạ Thích Quán Thông
Tiến sỹ - hiện đang định cư tại Hoa Kỳ.




Nam mô A Di Đà Phật
Gần đây, có nhiều bài phổ biến trên các tạp chí, trên mạng, trên mọi phương tiện truyền thông, đề cập đến hiện trạng suy đồi trong hàng tăng lữ, về giá trị học thuật ngoại điển, về mảnh bằng của đời nâng cấp địa vị trong đạo...v...v... Thật ra trạng huống suy đồi thời nào cũng có, ngay cả lúc đức Phật còn tại thế, vấn đề là tại sao chỉ trách cứ hàng tăng lữ mà không có ai nhắc tới vai trò của đoàn thể cư sỹ tại gia trong trạng huống suy đồi đó?
Lời dạy cuối cùng trước khi đức Phật Thích Ca nhập đại niết - bàn là: “Các ngươi hãy lấy giới luật làm Thầy” (Vinayo Sasanassa Ayu - The Rule is the Life of the Teaching). Trải qua hơn hai ngàn năm trăm năm, lời dạy này vẫn còn là mạng mạch của Phật pháp, bất kỳ ở thời gian hay không gian nào.
Giới luật có hai phần, phần cụ túc dành cho tăng lữ xuất gia và phần căn bản năm giới dành cho cư sỹ tại gia. Qua thời gian, Phật pháp phát triển và tồn tại đều nương nhờ vào hai yếu tố: Tăng lữ và cư sỹ. Hai thành phần này (hay đúng hơn là Tứ chúng: tăng lữ gồm tỳ - kheo và tỳ - kheo - ni, cư sỹ gồm ưu - bà - tắc và ưu - bà - di) luôn luôn hỗ trợ nhau như cá với nước, không thể nào tách rời nhau được. Lý do giản dị và thực tiễn là tăng lữ nương nơi cư sỹ nhờ vào tăng lữ trong những sinh hoạt tâm linh như học Phật, tu tập, cầu an cầu siêu...v...v.. từ đó Phật giáo mới tồn tại. Tăng lữ như cá sống trong nước cư sỹ, không có nước thì cá không thể sống được.
Truyền thống Nam phương Phật giáo hiện nay phần lớn vẫn giữ nguyên tình trạng hỗ tương liên hệ đó: một vị tăng trước khi xuất gia phải tìm một gia đình cư sỹ bảo trợ cho phần tứ sự, trong khi đó cư sỹ vào những ngày lễ thì đến chùa hay tự viện để nghe pháp, tu học và phát nguyện thọ giới cư sỹ lần nữa. Tại các nước Phật giáo Nguyên thuỷ, chư tăng ở vùng xa phố thị kinh đô vẫn còn trì bát khất thực, không ăn sau giờ ngọ và dành nhiều thời giờ để thiền định. Trong khi đó, lúc Phật pháp truyền vào Trung Quốc là nước có một nền văn minh hoàn toàn khác hẳn với văn minh Ấn Độ đã phải trải qua rất nhiều thay đổi lớn trong căn bản để có thể hội nhập giao lưu với hai dòng tư tưởng bản địa là Đạo giáo và Khổng giáo, cuối cùng phát triển tư tưởng Đại thừa Phật giáo (Phật giáo Bắc phương) đến cực điểm. Nhưng dù có thay đổi tư tưởng căn bản, thì lời dạy của đức Phật “Lấy giới luật làm Thầy” vẫn không thay đổi. Do đó, trong lịch sử hoằng bá Phật pháp, lúc nào một vị tăng có đạo cao có đức trọng cũng đều được các bậc vua chúa hay hàng vương giả trí thức tôn bái làm Thầy, quy hướng theo và bảo trợ để dễ dàng xiển dương chánh pháp. Rồi cũng trong tiến trình bảo trợ từ hàng cư sỹ vương giả đó, nảy sanh ra nhiều tệ đoan, kết thành những bè phái chống đối, mãnh liệt đến độ huỷ diệt Phật giáo.
Trong lịch sử truyền bá vào Trung Quốc, Phật giáo đã phải trải qua ba lần pháp nạn lớn, gọi là Thời Phế Phật: Một là Thời Bắc nguỵ, Thái Võ đế (tại vị năm 424-451), Hai là thời Bắc Châu Võ đế (tại vị 560-578), Ba là thời Hội Xương năm 845 dưới triều vua Võ Tông nhà Đường, lần này là trầm trọng nhất đến độ chỉ hơn một trăm năm sau, khi Đường Huyền Tông kế vị và sắc lệnh cho phục hưng Phật giáo thì các tông phái lớn như Hoa Nghiêm tông, Pháp Hoa tông,Tam Luận tông hầu như tan rã hoàn toàn chỉ có Thiền và Tịnh Độ tông là có cơ ngơi khởi sắc thêm. Phật giáo Trung Quốc từ đó dậm chân tại chỗ, không phát sinh thêm tư tưởng gì mới, để rồi dần dần hội nhập vào tư tưởng tam giáo đồng nguyên. Phật giáo bắt đầu quần chúng hoá, và một phó sản tiêu cực của nó là vai trò của tăng lữ được thần thánh hoá, như là những nhà phù thuỷ có thế lực thần quyền trừ tai giải nạn cho bình dân bá tánh.
Phật giáo Việt Nam may mắn không gặp những nạn phế Phật như thế, nhưng biến cố 1963, phần tích cực dĩ nhiên nhưng yếu tố tiêu cực cũng không thiếu, đã khiến cho một số tăng lữ bị choá mắt trước hào quang chói lọi giả tạm của một cuộc cách mạng không đổ máu, cho nên đạo đức nền tảng bị băng hoại, kéo dài cho đến ngày nay.
Cho nên những bài viết nói về tình trạng suy đồi trong tăng lữ hiện đại, tại quốc nội cũng như hải ngoại, cũng không phải là vấn đề mới mẻ. Duy một điều là các vấn đề đặt ra đều xoay quanh hành vi sinh hoạt của tăng lữ, phần lớn do một số cư sỹ than thở viết ra, nhưng hầu như chưa thấy ai nêu lên vấn đề và vai trò trách nhiệm của cư sỹ trong tiến trình hộ pháp hộ tăng.
Thành phần cư sỹ ý thức thì thở than khi tăng lữ suy đồi, thành phần cư sỹ dễ tin, nhất là dễ sợ - sợ phạm tội - thì mù quáng chiều chuộng theo những dục vọng của nhóm tăng lữ hủ bại.
Ở vào thập niên 60 thế kỷ 20, chỉ có một ít học tăng được du học Ấn-Độ... làm văn hoá và giáo dục dĩ nhiên phải có một kiến thức căn bản và giáo dục dĩ nhiên phải có một kiến thức căn bản và chuyên môn, cho nên hiện tượng có hơn 200 tăng ni đang du học tại Ấn Độ ngày nay là một điều đáng mừng cho tiền đồ Phật giáo. Thế nhưng lại có một học tăng lớn tiếng tuyên bố: “Không cần biết Hán văn, chỉ cần giỏi Phạn ngữ, Pali là đủ, Hán học không cần thiết!”. Quả là tiếng kêu hơi ngông của con ếch còn ngồi đáy giếng. Ngay cả Hoà thượng Thích Minh Châu khi phiên dịch Đại tạng Pali sang Việt ngữ mà còn phải tham khảo với các bản Hán, Anh để bản dịch của ngài được hoàn chỉnh!
Có một số tăng ni từ Việt Nam qua Mỹ theo diện du lịch, xin ở lại nói là để học nhưng đa số đi “làm chùa riêng” ở những vùng không cần thiết, để hưởng nhàn. Số tăng ni khác sau vài năm kham khổ không nổi tại Ấn Độ cũng chạy sang Mỹ mượn tiếng là đi tìm tài liệu, rồi tìm cách định cư bất hợp pháp luôn và nhiều vị cũng “đi làm chùa” lung tung khiến tiêu hao tài vật của đàn-na thí chủ. Những người đó rồi sẽ đóng góp được gì cho Phật giáo Việt Nam khi bản thân họ đang chỉ biết hưởng thụ nhưng kỹ thuật tiên tiến nhất của thế kỷ 21? Mỗi người có một cái laptop - máy vi tính xách tay - (không phải để lôi từ trên mạng xuống những bài vở có giá trị giúp ích cho sở học), một cái cell-phone - điện thoại di động -, (không phải để liên lạc cùng thiện trí thức), một chiếc xe bóng nhoáng, (không phải để đi làm Phật sự).
Nêu lên câu hỏi trên, chúng ta chỉ trở lại câu hỏi lần nữa: Những kiến thức ngoại điển đó, có giúp ích gì được cho cuộc sống nội tâm của một tăng sỹ trên đường tìm giải thoát hay không? Hay là mang hình thức mới, mang đạo và đời, cư trần lạc đạo? Cho nên tất cả giáo trình đào tạo tăng tài cho Phật giáo Việt Nam cần phải đặt lại, nói chung là một tu sỹ phật giáo (tăng hay ni) không những phải thâm đạt một bộ môn nào đó trong Phật học (nội điển) mà còn phải học qua các bộ môn khác thực tiễn trước xã hội như: tâm lý học, xã hội học...
Đề nghị này cũng không có mới mẻ gì, bởi vì trước đây không lâu, cố H.T Thích Trí Thủ cũng viết bài: “Thử vạch một quy chế cho Tăng sỹ và một chương trình đào tạo Tăng - sinh thích ứng với nhu cầu của giáo hội trong hiện tại và tương lai gần”.
(Trích toàn tập Tâm Như Trí Thủ, Quyền I, các trang 678-697). Bài này bao quát nhiều vấn đề và bộ môn hơn, có thể tóm lược như sau:
1. Trụ Trì Tăng: Lãnh đạo một tự viện.
2. Công Đức Tăng: Củng cố thực chất (tu trì, niệm Phật, toạ thiền...)
3. Thiệp Thế Tăng: Kéo đời vào đạo như Hoá ngoại, giảng pháp...
4. Giáo Huấn Tăng: đem đạo vào đời: Văn hoá, giáo dục.
5. Nhiếp Hoá Tăng: Tích cực nhập thế: Công tác xã hội...
Mỗi ngành cần có một hội đồng quản trị của ngành về chuyên môn, bởi vì một vị tăng dù tài cao học rộng tới đâu cũng không thể nào bao quát hết mọi phương diện của Phật pháp.
Có thể nói, đề nghị này đã được Phật giáo Tây tạng tích cực thực thi rồi. Trong thập niên pháp nạn 1950, sau khi vượt biên đến Ấn Độ và được chính phủ Ấn Độ cho một khu đất hoang tàn, nay được biết đến là Dharasamla, Phật giáo Tây tạng đã biết dĩ tịnh chế động, biết âm thầm đào luyện tăng tài trong thập niên 60: những người có thế trí biện thông, biện tài vô ngại, thì chuyên luyện về thuyết giảng (Thiệp Thế Tăng), những người muốn nghiên cứu hay dịch kinh thì có nơi để ngồi yên mà viết lách dịch thuật (Giáo Huấn Tăng) - hiện nay 2 bộ Đại tạng Kanjur và Tanjur của Tây Tạng đã được phiên dịch toàn bộ sang Anh ngữ, hơn 20 năm qua. Nhưng có một số có lẽ cũng không ít Công Đức Tăng, vô danh tăng đang lặng lẽ thiền định trong những nơi hoang vắng trên đỉnh Tuyết sơn, trong những ngôi chùa đèo heo hút gió, để làm nóng cốt thực chất cho những Thiệp Thế Tăng ngoài kia. Những người Thiệp Thế Tăng thành công một phần nhờ vào tri thức căn bản về Phật học, nhờ biện tài vô ngại, nhưng phần lớn là nhờ vào đạo đức trang nghiêm, hành trì cẩn mật, nhờ chất lượng nóng cốt từ những Công Đức Tăng kia. Số lượng Phật tử Tây Tạng quá ít, tăng đoàn chỉ nhắm đến người Tây Phương và đã thành công có thể nói là rực rỡ, qua hình ảnh của một đức Đạt-lai Lạt-ma, được trọng vọng như một giáo hoàng của Phật giáo toàn cầu, ngoài điều mà ngài đã được tôn xưng là đức Phật sống. Phật giáo Việt Nam có lịch sử trải dài hơn 2000 năm, có được một vj được đề nghị giải Nobel Hoà bình và một vị được các lực lượng chính trị hải ngoại hứa cuộc là sẽ được giải Nobel, trong nay mai!
Quá trình lịch sử cho thấy, chính cư sỹ mới là thành phần nóng cốt trong sự nghiệp phát triển Phật giáo cho nên mới có câu: “Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác”. Phải chăng, chính trong tinh thần đó mà thái độ “cư trần lạc đạo” của Trần Nhân Tông đã sống động trong thời kỳ hưng thịnh Lý - Trần? Và cũng với tư tưởng đó mà hiện tại có rất nhiều vị tăng trẻ hăm hở tình nguyện làm Thiệp Thế Tăng mang đạo vào đời, hay đang tự để cho đời làm hoen áo đạo? Tại hải ngoại hiện tượng mỗi thầy một chùa, ai có giọng tụng kinh hay, hoặc tổ chức được các khoá tu học như Bát quan trai, đạo tràng Pháp Hoa (tụng kinh Pháp Hoa được nhiều phước!)... thì chùa đó có đông Phật tử, dĩ nhiên có tiền nhiều vào trong túi riêng, trong khi giới thứ 9 đức Phật dạy rõ ràng: Không được cầm giữ vàng bạc. (thật ra họ có giữ đâu, nhà băng giữ giùm mà!). Một vị tăng sỹ trẻ tuổi, rất khá Anh văn, có thể mở lớp dạy thiền cho người Mỹ, nhưng khi được khuyên nên nhắm đến truyền bá cho Phật tử ngoại quốc, cũng phải nhìn nhận rằng: “Không có Phật tử Việt Nam thì không sống nổi!”
Đó là tình trạng thuần thành của giới Phật tử cư sỹ, ủng hộ tăng lữ hết mình. Nhưng còn bản thân tăng sỹ thì sao?
Cư sỹ Phật tử sống trong một mâu thuẫn biện chứng kỳ lạ đến độ kỳ diệu: nuôi dưỡng tăng lữ, rồi lại quỵ luỵ tăng lữ...
Một ông thầy nào đó phạm giới, đáng lý phải nên xa lánh thì lại chỉ trỏ rỉ tai, sợ phạm tội, ngao ngán thở dài, rồi bỏ đạo!
Đạo Phật không sai, chỉ có những người khoác áo tu sỹ đi sai, làm sai, nói sai. Những thành phần đó là những con trùng sống trong mình sư tử mà ăn thịt lại sư tử, cần phải bốc ra loại bỏ. Đạo Phật là đạo từ bi, nhẫn đến con kiến cũng không hại, nhưng nếu muốn con sư tử sống còn để rống lên tiếng sư tử hống, thì phải biết vạch lông tìm bắt từng con trùng sâu trên mình sư tử mà bỏ đi. Không ai có thể huỷ diệt Phật giáo ngoài chính một số ít thành phần ung thối đó trong tăng ni. Lẽ dĩ nhiên trong tăng lữ vẫn còn rất nhiều bậc đạo cao đức trọng, cho nên cư sỹ cần phải dũng cảm, cần dùng trí tuệ sáng suốt vốn là điều kiện tiên quyết trong Phật pháp để mà gạn lọc được viên ngọc kim cương sắc bén giữa cát sạn bẩn nhơ. Chiếc áo không làm nên thầy tu!
Đời nhà Thanh, vua Thuận Trị đã làm một bài thơ trước khi rời hoàng cung xuất gia làm tăng:
Trầm vi đại địa sơn hà chủ,
Vi quốc vi dân sự chuyển phiền,
Bách niên tam vạn lục thiên nhật,
Bất cập tăng gia bán nhật nhàn!
Tạm dịch:
Trẫm tuy là chủ nhân của giang sơn rộng lớn,
Vì nước vì dân mà chịu nhiều phiền luỵ
Dù làm vua trọn ba vạn sáu ngày đi nữa,
Chẳng bằng nửa ngày nhàn hạ của ông tăng!
(Đại ý: Trọn đời làm một ông vua cũng chẳng vui sướng hạnh phúc bằng nửa ngày nhàn hạ của ông thầy tu!)
Ngày nay, thử hỏi cuộc sống mấy ai biết hưởng thú nhàn hạ chỉ trong nửa ngày của cuộc đời tăng?
Từ ngàn xưa đức Phật dạy: Cư sỹ có bổn phận cúng dường tứ sự cho chư tăng: Thức ăn uống, thuốc thang, chỗ ngủ nghỉ và y phục. Không lao nhọc mà đầy đủ như thế rồi, nếu dành hết thì giờ để ngồi thiền, tụng kinh, niệm Phật, bái sám... hoặc đọc sách, dịch kinh, tư duy lời Phật dạy, thì biết bao nhiêu là nhàn hạ, đâu những chỉ nửa ngày?
Y phục, tử là ba bộ y, vừa đủ để mặc. Ngày nay tăng ni không biết là bao nhiêu bộ, lại dùng loại hàng lụa thứ thiệt tốt. Chỗ ngủ nghỉ, tức là chùa chiền, tu viện, tịnh xá, có nghĩa là Phật tử cúng dường chung để bảo trì chùa làm nơi ngủ nghỉ tu hành cho tăng ni, không phải cúng dường riêng cho một người nào để lập chùa.
Thức ăn, có thể ăn ngày 3 bữa, không cần khất thực theo truyền thống, nhưng phải biết tiếc từng hạt cơm từng miếng rau do cư sỹ dâng cúng, nhiều chùa ăn dư buổi trưa thì đổ vào thùng rác, buổi chiều nấu thức ăn khác! Thuốc thang, có nhiều Bác sỹ Phật tử trị bệnh miễn phí, những bệnh thông thường mà còn là con người thế nào cũng mắc phải, chứ không phải chữa những bệnh vi phạm giới cấm mà phát sanh ra.
Tình trạng chùa chiền chen chúc nhau mọc lên như nấm tại vùng quận Cam (Orange County, California) cũng là do nơi cư sỹ đã quá đà trong việc ủng hộ tăng ni, phần lớn là còn trẻ nhiều sinh lực, có tài ăn nói không thua một salesman (nhà kinh doanh, người bán hàng), dùng những danh từ Phật học trống rỗng thật kêu (thiền giả gọi là “bắn bổng”) để ăn khách, không khác nào là diễn viên trên sân khấu cho khán giả cư sỹ khen rộ vỗ tay.
Rồi cũng chính cư sỹ đã thần thánh hoá tăng lữ. Phật tử thường hay than phiền vị thầy này, ni cô kia, nhưng lại nơm nớp lo sợ là “nói động đến họ thì mang tội”. Đọc lại các kinh điển do chính đức Phật dạy, có kinh nào đức Phật bảo phải tôn sung tăng lữ như vậy hay không? Tất cả, từ kinh Pháp Hoa, Kim Cang cho đến Viên Giác, Hoa Nghiêm... đều là chỉ bày chân lý và tự thân thực chứng (ông tu ông đắc, bà tu bà đắc), ngay chính đức Phật cũng không chịu để cho ai sùng bái ngài “Các ngươi hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi, Ta chỉ là người chỉ đường”. Thì sao lại phải sợ mang tội?
Một ông thầy tu, ngoài cái đầu không tóc và bộ áo nhật bình ra vẻ đường đường tăng tướng, thật thế cũng chỉ là một người bình thường, cũng có lục dục thất tình như mọi người. Ngoài số lớn trì giữ giới luật nghiêm mật - thành phần này không có xe hơi, không có cell-phone nhưng có nhiều băng giảng pháp chân chính hay các bộ kinh điển dịch thuật đúng nghĩa - số còn lại thì cũng chỉ là những người tập tễnh trên đường tu đạo mà thôi. Chữ tu có nghĩa là sửa đổi (tu chỉnh), một người sanh ra bản tánh có thể là sân giận, nói nôm na là tánh nóng (hay nổi nóng), sau quá trình tu tập hoặc thiền định hoặc niệm Phật vài ba mươi năm, đến cuối đời mà vẫn không bớt tánh nóng đó đi được một phần nào, thì công phu tu tập ở đâu? Làm thiền sư dạy trăm ngàn người ngoại quốc thực hành an lạc, thư giãn, hít thở cho tĩnh lặng, mà video nhiều chỗ chiếu lên gros plan (cận cảnh), gương mặt nhăn nhó nhiều phiền não, không phải ưu sầu cho thế sự, mà là một bầu tâm sự sôi sục trong lòng, thì định nghĩa thiền sư phải như thế nào?
Nêu lên những tiêu hoại như trên, không phải là để đả kích mà là để kêu gọi một hưởng ứng như là ôm mộng đội đá vá trời, kêu gọi hàng ngũ cư sỹ xin hãy khoan vội đổ lỗi cho hàng tăng lữ, mà cần thấu hiểu và áp dụng giới luật do chính đức Phật dạy để hộ trì và thực thi chánh pháp. Con đường trước mặt là, cư sỹ cần phải làm một cuộc cách mạng để:
1.- ĐẢ PHÁ TÔN SÙNG THẦN TƯỢNG NƠI NGƯỜI TĂNG SỸ.
Bởi vì tăng sỹ cũng là con người, còn đủ thất tình lục dục, chỉ có mảnh áo tràng và giới luật là bảo vệ cho họ còn là một người cao quý hơn cư sỹ một nấc, chỉ một nấc thôi. Họ không phải là thần thánh, cũng không đại diện cho thần thánh để giải trừ tai ương khổ nạn cho chúng sanh. Tăng sỹ nhất là từ một vài đạo tràng uy tín ngoài Huế, thường có thái độ như ta đây là “thiên nhơn chi đạo sư”, còn tăng lữ dầu là những người đạo rất cao, đức rất trọng đã đạt được vài quả vị trên đường giải thoát rồi, cũng vẫn còn là con người bình thường, hà huống những hạng bê bối, phạm đủ thứ “ba-la-di” (ba-la-di nghĩa là Tăng Tàn, ai phạm giới này là phải bị trục xuất khỏi hàng ngũ Tăng-già).
Những bậc đáng tôn kính là những bậc long tượng theo đúng nghĩa (“thượng hoằng Phật đạo, hạ hoá chúng sanh)”, thế nhưng còn hạng kia, trước kia đã không theo đúng đường đức Phật dạy rồi, thì sau lấy cái gì để dạy dỗ chúng sanh? Chỉ cái đầu tròn cái áo vuông và một giọng tụng kinh hay, chưa đủ. Đừng quên câu “nhược dĩ sắc kiến ngã...”
2.- KIỂM THÚC VIỆC CÚNG DƯỜNG
Những gì tăng sỹ do cảm tình cá nhân yêu cầu mà không cần thiết cho sự phát triển tâm linh của họ, thì cần phải từ chối. Thí dụ, một vi tăng trẻ, cần một cái cell-phone để làm gì? Để liên lạc với Phật tử? Chỉ trong hai giờ đồng hồ, một vị tăng nói chuyện trên cell-phone 3 lần, đều là với nữ cư sỹ, mỗi người trên nửa tiếng đồng hồ. Nói chuyện gì? Chắc chắn không phải là thuyết pháp! Trong hai giờ ấy, nếu biết giữ giới, tu thiền, niệm Phật thì công đức biết bao! Ngày nay, chính những cái dư dã đó đã khiến tăng sỹ sa đoạ, cho nên chính cư sỹ làm hư thầy!
3.- SÁNG SUỐT TRONG KHI PHÁT TÂM CÚNG DƯỜNG
Một vị tăng sang Nhật Bản học vào đầu thập niên 70, không học hành nên gì, qua thăm Mỹ lần đầu giữa những năm 80, nói: “Tôi sắp lên máy bay rồi mới cạo đầu lại!”... đó chính là lời ông ta tâm sự với một vị thầy khác.
Đầu năm 2006 trở lại, ông ta đã trở thành Hoà Thượng, kêu gọi xây chùa tại Nhật, quyên được hai ba trăm ngàn đô la.
Đất Mỹ quả thật quá phì nhiêu, lòng người Phật tử rất thuần thành rộng rãi. Có biết nơi xứ Nhật, một tăng sinh ngoại quốc giới hạnh đầy đủ còn chưa có thể được tạm trú trong một ngôi chùa Nhật để tu học, làm gì có chuyện cho phép thầy tăng ngoại quốc cất chùa ở đó? Nhật Bản cũng không phải là quận Cam dễ dãi, thiên hạ chen chúc nhau lập chùa! Ông ta cũng gần 70 rồi, nếu có thể lập chùa đi nữa, bao giờ mới xong? Lập xong rồi, thầy sẽ tụng kinh giảng pháp cho ai? Cho người Nhật à? Vậy nên, tuy phát tâm cúng dường là một phước báu nhưng người cư sỹ cũng phải suy lường đến kết quả của sự cúng dường đó.
Phải biết dùng trí tuệ, là một món phước báu lớn trong đạo Phật, để nhận định mà cúng dường đúng theo chánh pháp. Đừng có ý nghĩ tiêu cực rằng: “Tôi phát tâm cúng dường là tôi được phước, còn ông thầy tu làm bậy với số tiền cúng dường đó thì ổng mang tội ráng chịu!”. Người xưa còn có câu: “Nối dáo cho giặc”. Vậy xin hãy thận trọng.
4.- TÍCH CỰC THAM GIA CÁC CÔNG TÁC THUỘC XÃ HỘI, Y TẾ, GIÁO DỤC, VĂN HOÁ...
Điển hình về những công việc cứu tế từ thiện phải do cư sỹ đảm đương, vị Thầy chỉ đứng tên kêu gọi bởi vì có uy tín, nhưng vị Thầy đó không được đụng tới những đồng tiền đó (giới thứ 9). Ai là người đã mượn danh nghĩa cứu trợ nạn lụt vùng đồng bằng Sông Cửu Long để bỏ vào túi riêng một ít tiền đó? Hãy noi gương của Ni sư Chứng Nghiêm bên Đài Loan, hội Tư Tế của bà đã có mặt khắp nơi trên thế giới, những kiện hàng cứu tế đầy ăm ắp trong kho chờ khi nơi nào có thiên tai nhân hoạ là sẵn sàng chất lên máy bay ngay. Ni sư chỉ ra đứng làm lễ chứng minh rồi nhường lại cho cư sỹ đảm trách phần thể hiện lòng từ bi chân thật của đạo Phật. Cư sỹ bảo trợ là những đại thương gia tài sản kếch sù, họ cần một bậc chân tu chứng minh cho công tác từ thiện của họ, đây là không kể Ni sư cũng là chứng minh đạo sư cho một trường đại học y khoa (tuy bà không có cấp bằng bác sỹ), đào tạo những tăng ni bác sỹ y tá với mục đích thực hiện những giáo lý từ bi thiện nguyện của đức Phật.
Phật tử Việt Nam ngày nay không thiếu những cư sỹ có nhiều phương tiện vật chất, có đầy đủ đạo tâm,... có dư thừa tình thương như thế, sao không có được một Ni sư Chứng Nghiêm cho Việt Nam?
Nói về tham gia chính trị. Thì cư sỹ mới phải làm chính trị, để bảo vệ Phật pháp. Cá nhân tăng lữ không nên vì một cái ngã, (đáng lý là mục tiêu cần tiêu diệt trên đường tu đạo), mà dẫn dắt cư sỹ vào đường chính trị rồi cứ hô hào là mình không làm chính trị. Giới phạm thứ tư!
Tăng sỹ cũng không nên y áo chỉnh tề sì sụp lễ lạy và hôn nhẫn giáo hoàng Công giáo La-mã để cầu viện đồng minh chính trị! Tăng lữ cũng không nên để cư sỹ xỏ mũi để xum xuê làm những con múa rối cho một tập đoàn cư sỹ “Made in Paris” giật dây, đã “nội bất xuất, ngoại bất nhập, bị kềm kẹp? thì làm sao có những văn thư Viện trưởng này, Đại lão hoà thượng nọ rập rềnh trên những phương tiện truyền thông ngoại quốc và cám ơn đầy đủ tên tuổi những cơ quan toàn cầu (global), những nhân vật chính trị nổi tiếng thế giới?
5.- GIỮ THÁI ĐỘ BÌNH NHIÊN VÀ BAO DUNG TRƯỚC NHỮNG VỊ TU XUẤT:
Nhờ đủ nhân duyên mà một người còn là tăng sỹ (chân chánh), nếu nghiệp quả lôi kéo nửa đường phải xin giải y một cách đàng hoàng, thì cư sỹ cần phải hoan nghênh họ trở về với cư sỹ đoàn, tham gia những công tác đóng góp... trong vai trò của cư sỹ cho Phật pháp. Đã có nhiều thái độ trái nghịch của một số cư sỹ mù quáng, khi một người thầy tu giải giới thì chế giễu, phỉ nhổ khiến vì mặc cảm mà vị đó bỏ chùa bỏ đạo. Phật pháp mất đi một cư sỹ có khả năng!
Ngược lại, một vài thầy, danh tiếng vang dậy, che đậy giới phạm thứ ba (tăng tàn), sanh con đẻ cái, mà vẫn chễm chệ leo lên ngồi ghế cao để nhận sì sụp bái lạy của một số cư sỹ thuần tín. Có bao nhiêu con hoang (thật ra không phải con hoang, bởi vì chúng biết có mẹ có cha, mà không thể gọi một tiếng cha, còn đau khổ nào bằng), nếu ông thầy kia biết tàm quý, danh lợi trong cổng chùa cũng không cao cả linh thiêng bằng tình cha con máu thịt, để được tự nhiên vuốt tóc gọi một tiếng con (đau khổ nào hơn), thì thanh tịnh biết mấy cho hàng tăng lữ!
Cá phải sống nhờ trong nước, nhưng mà nước đục thì cá có thể chết. Nếu cư sỹ là nước thì phải là những thứ nước trong sạch, để trưởng dưỡng cá “Tăng”, bằng không, cá chết rồi mà nước tuy vẩn đục nhưng vẫn còn có thể là nước. Đây không phải là một cuộc cách mạng bạo lực, mà cư sỹ phải ý thức vai trò hộ pháp của mình, hộ trì chánh pháp chứ không phải hộ tăng (nhất là những vị tăng tàn), mặc dầu tăng là những người truyền bá chánh pháp.
Cuộc chấn hưng Phật giáo đầu thập niên thế kỷ 20 do Thái Hư đại sư lãnh đạo (ở Trung Quốc) cũng do vì tình huống tăng lữ thời ấy quá hủ bại. Nay nếu trong giáo đoàn tăng lữ không ai dám, hay không có thể - vì không có giáo quyền - để tiếp tục công cuộc chấn hưng Phật giáo, thì cư sỹ phải là đoàn thể có trách nhiệm và có bổn phận chấn chỉnh tăng - già.
Bởi vì cư sỹ là những vị hộ trì tăng lữ để nối truyền mạng mạch Phật pháp, cư sỹ có quyền (có tiền là có quyền) và có khả năng (tất cả phương tiện không nằm trong 5 giới cấm của cư sỹ) để thực thi sứ mạng đó.
Mong thay!
Nam mô A Di Đà Phật...
Thượng toạ Thích Quán Thông.

Tiến sỹ - hiện định cư tại Hoa Kỳ.

No comments:

Post a Comment