Blogroll

Friday, April 11, 2014

Những vị Bồ Tát khai sáng Tịnh Độ (Phần 1) - Long Thọ Bồ Tát

LONG THỌ  BỒ-TÁT
                   


Những con người vĩ đại thường xuất hiện với những kỳ tích phi thường, trong những nhân cách siêu việt đến nỗi trở thành huyền thoại cho muôn ngàn đời sau. Họ đã đến với trần gian này để chuyển hóa thế giới bằng một cuộc cách mạng tư tưởng chưa từng xảy ra trong lịch sử nhân loại, mà Phật giáo thời bấy giờ đang cần một con người như vậy.
Vâng, thời đó chính là khỏang 700 năm sau khi đức Thích Ca diệt độ, đạo Phật bị khủng hoảng giáo lý trầm trọng cùng tệ nạn bè phái sư tăng tràn lan, cho nên các học thuyết tà kiến của thế gian và ngoại đạo đã bành trướng len lỏi khắp mọi tầng lớp dân chúng cũng như tín đồ nhà Phật. Xã hội Ấn-độ đang đợi chờ một nhân vật kiệt xuất, hùng tài, để chấn chỉnh hiện trạng và cải cách hệ thống tư tưởng đang bị phân hóa vì sự bế tắc của giáo nghĩa Tiểu-thừa cũng như sự sai lầm nghiêm trọng của các học thuyết ngoại đạo.
          Giữa lúc ấy, ngài Long Thọ đã góp mặt cùng nhân gian như một Con Người, với sứ mạng vô cùng quan trọng: đó là làm cho con người hoàn bị hơn về tư tưởng và tốt đẹp hơn về nhân cách tâm linh.
Long Thọ đại sỹ, ngôn ngữ Bắc Phạm đọc là Nagârjuna, hạ sanh tại miền Nam Ấn-độ sau khi đức Thích Ca nhập diệt khoảng 700 năm. Tương truyền ngài sanh dưới gốc cây A Châu Đà Na, cây này có năm trăm vị long thần cư trú, lại nhờ Long Vương Bồ-tát mà thành đạo, nên ngài lấy hiệu là Long Thọ.
Long Thọ đại sỹ đã trải qua một cuộc sống phong phú, dị thường và đầy biến động. Nguồn tư liệu duy nhất mà chúng ta có thể tham khảo đó là một tác phẩm bằng Hán-văn: “Cuộc đời của Bồ-tát Long Thọ” do ngài Cưu-ma-la-thập dịch từ tiếng Sanckrit (Bắc Phạm). Tác phẩm này được tìm thấy trong tập thứ 15 của “Đại Chính Tân Tu Đại Tạng Kinh”.
          Theo tác phẩm này, Long Thọ là con trai của một gia đình Bà-la-môn quý phái nổi tiếng ở miền Nam xứ Ấn-độ. Ngay từ lúc còn bé, ngài đã biểu lộ tài năng xuất chúng về đường học vấn, từng thuộc làu 4 bộ Vệ-đà cũng như tinh thông giáo lý Bà-la-môn. Hơn thế nữa, ngài còn thấu triệt các món thiên văn học, địa lý, sấm vĩ, bí tạng và các đạo thuật khác như tàng hình, trường sanh, tiên tri, giải mộng... 
Tương truyền rằng, thuở còn trai trẻ, sau khi tinh thông các môn học và rèn luyện pháp thuật, một ngày nọ Long Thọ cùng với ba người bạn cùng thảo luận xem phải làm gì trong lúc này để thi thố những thứ mà mình đã hấp thu được từ trong sách vở. Họ quyết định dấn thân vào con đường nhục cảm. Bằng cách thực hiện phép tàng hình, bốn người bọn họ bắt đầu lén lút xâm nhập thâm cung của vị tiểu vương. Các  người phi tần của nhà vua lần lượt bị cưỡng hiếp, và sự việc này lan truyền ra khiến hoàng cung vô cùng phẫn nộ và kinh dị. Nhất là một người ái thiếp của nhà vua đã bị mang thai. Và nhà vua vô cùng phẫn nộ, nghĩ cách giăng bẫy để bắt thủ phạm ngay tại hiện trường.
Đêm nọ, nhà vua ra lệnh rải cát xung quanh cửa ra vào chốn khuê cung, và cho một đạo quân rình đợi những kẻ đột nhập phi pháp.
Mặc dù vận dụng pháp thuật tàng hình khiến người khác không thể nhìn thấy hình dáng của mình, nhưng bốn kẻ phi tặc này đã để lại dấu chân trên cát khi lẻn vào thâm cung. Binh lính phát hiện dấu chân bèn đổ xô vào đâm chém kịch liệt.
Những tiếng gào thét rên la thảm thiết vang lên, ba người bạn của Long Thọ bị giết chết, chỉ riêng Long Thọ tránh được thương tổn nhờ nhanh trí bám chặt lấy nhà vua, và sau đó thoát khỏi hoàng cung bình yên vô sự.
Tuy thoát được tai nạn kinh khiếp ấy, nhưng ngài Long Thọ đã thức tỉnh nhận ra rằng: lòng tham nhục dục và tình cảm thế gian chỉ là nguồn gốc của mọi khổ đau trong cuộc đời này. Do đó, ngài quyết chí xuất gia, đến trước tháp Phật để thọ giới và trở thành vị tỳ-kheo chân chính của đạo Phật.
Rõ ràng ngài Long Thọ là một nhân vật có cá tính mạnh mẽ và phi thường. Điều này được minh họa rất rõ bởi tính chất độc đáo của học thuyết Trung Quán Luận hay Trung Luận, môn triết học mà ngài đưa ra như một hệ thống khái niệm “Không” được phát hiện đầy rẫy trong vô số kinh điển Đại-thừa. Chính nhờ triết lý này mà ngài được thừa nhận như một trong những nhân vật quan trọng nhất của lịch sử tư tưởng thế giới.
Bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập kể rằng, “Sau khi học hết giáo lý Bà-la-môn, ngài Long Thọ trở thành Tỳ-kheo và đã tham cứu toàn bộ các Kinh, Luật, Luận trong tam tạng giáo điển chỉ trong chín mươi ngày! Nhưng điều này vẫn chưa làm cho Ngài thỏa chí, và ngài đã bắt đầu cuộc hành trình tìm kiếm những hiểu biết sâu sắc hơn, tường tận hơn về chánh pháp.
Cuộc phiêu lưu này đã đưa ngài đến tận những vùng xa xôi của phương Bắc Ấn-độ, nơi này, Ngài đã gặp một bảo tháp thờ Phật, ở sâu trong lòng đất trên dãy Hi-mã-lạp sơn. Nơi đây, ngài đã nhận được những bản chép tay của một số kinh điển Đại-thừa và ngài đã đọc say sưa, tuy nhiên ngài vẫn cảm thấy còn một chân lý cao siêu hơn có thể phát hiện đâu đó.
Để giải đáp điều này, ngài tiếp tục đi khắp Ấn-độ tham gia tranh luận với các triết gia, luận sư khác nhau, đồng thời tìm kiếm thêm những văn bản khác của kinh điển Đại-thừa. Với việc đi lại khó khăn thời bấy giờ, thì một hành trình dài lâu như vậy chắc hẳn gặp  nhiều gian khổ, nhưng ngài vẫn không bao giờ nản lòng, tự nguyện dâng hiến cuộc sống mình cho chân lý vi diệu của Như Thật Đạo.
Cuối cùng, ý chí sắt đá và quyết liệt đã chiến thắng cùng với sự đền đáp thỏa đáng: Ngài đã chứng đạt tới đỉnh cao của giáo lý Đại-thừa chứa đựng trong kinh Pháp Hoa.
Con đường dẫn ngài Long Thọ đến với kinh Pháp Hoa và các giáo lý Đại-thừa khác vô cùng quanh co, phức tạp - nhưng có lẽ không còn đường lối nào khác hơn! Trong thế giới Phật-giáo bảy trăm năm sau khi Phật niết-bàn, các tông phái Tiểu-thừa vẫn còn duy trì địa vị đáng kể về quyền lực giáo hội, tiềm lực phát triển và tầm quan trọng trong sinh hoạt tôn giáo.          
Các kinh điển Đại-thừa đã bắt đầu xuất hiện dường như để thách thức quan điểm và thực tiễn của phái Tiểu-thừa, nhưng sự việc ngài Long Thọ du hành khắp nơi để nghiên cứu và cầu học chân lý đã chứng tỏ các trung tâm của phong trào Đại-thừa hiện đang phân bố rải rác khắp nơi. Hơn nữa, chưa có một luận sư hoặc lãnh tụ triết học nào xuất hiện để phất cờ tấn công vào thành trì tư tưởng Tiểu-thừa. Trọng trách lớn lao này có lẽ dành cho ngài Long Thọ đảm đương và hoàn thành. Với sự tinh thông giáo nghĩa Bà-la-môn cùng thấu triệt tư tưởng Tiểu-thừa, kết hợp với lý tưởng cách mạng và hoằng dương Phật-pháp, khiến cho hậu thế kính ngưỡng ngài như là mẫu người lý tưởng để thực hiện công cuộc vĩ đại, có một không hai  ấy.
Chúng ta không thể nào không tự hỏi rằng, Phật giáo sẽ ra sao nếu không có ngài Long Thọ xuất hiện?
Long Thọ đã được Bồ-tát Đại-Long đưa tới long cung, và tại đây ngài được trao truyền những sách vở và kinh điển Đại-thừa của nhiều ngành khác nhau, những diệu pháp bí mật uyên áo còn đang được giấu kín. Qua các bộ kinh ấy, ngài đã thấu triệt tất cả những chân lý sâu xa, uyên áo của Đại-thừa.
Ngài đã chịu khó biên tập, phân loại, hệ thống hóa và sáng tác một số luận thư có giá trị vĩnh cửu, cho nên các nhà lập thuyết của nhiều tông phái về sau đã không ngần ngại suy tôn Ngài là sơ tổ của môn phái mà họ lập nên.
Đóng góp vĩ đại nhất mà ngài Long Thọ đã cống hiến cho nhân loại nói chung và Phật giáo nói riêng, đó là Ngài đã xác định cái cốt lõi của Đại-thừa Phật giáo bằng cách tuyên dương triết học Tánh Không, song song với việc truyền bá rộng rãi một sự minh giải chân chánh về giáo nghĩa Đại-thừa. Ngoài ra, ngài Long Thọ từng viết  một  trăm ngàn  câu  thi kệ về luận Ưu-ba-đề-xá (Duyên Khởi Luận), năm ngàn câu thơ về Phật-Địa Luận, năm ngàn câu thơ về Đại Thừa Phương Tiện Luận, Phật Đạo Trang Nghiêm Luận, năm ngàn câu thơ về Trung Luận, một trăm ngàn câu thơ về Vô Úy Luận.
Lúc bấy giờ, hoàng đế Nam Thiên-trúc tin thờ Bà-la-môn giáo và công kích Phật giáo, Ngài Long Thọ đến đó giáo hóa, khiến Vua bỏ tín ngưỡng Bà-la-môn giáo mà quy y Phật giáo. Từ đó về sau, Ngài nỗ lực hoằng pháp, viết nhiều sách chú thích kinh điển Đại-thừa, thiết lập thể chế cho giáo học Đại-thừa, khiến cho học thuyết “Bát-nhã Tánh Không” được truyền bá rộng rãi khắp Ấn-độ.
Long Thọ không những chỉ đạp đổ những sai lầm lý luận trong Phật giáo, mà còn chĩa mũi nhọn vào các lý thuyết triết học ngoại đạo, vận dụng hết khả năng trí tuệ để bài bác những diễn giải của những trường phái hư vô luận. Dưới uy lực vô song của nền triết học Tánh Không, các môn phái Tiểu-thừa đã bị nhận diện như là một thứ tà kiến nằm giữa lòng đạo Phật, mà chúng ta nhất quyết phải tận diệt nếu muốn khai thông con đường trở về tâm linh tối thượng.
Long Thọ Bồ-tát đã đặt nền móng thiết lập pháp môn Tịnh-độ, xiển dương Đại-thừa, hàng phục ngoại đạo. Tác phẩm quan trọng của Ngài được biết đến nhiều gồm có: Đại Trí Độ luận, Thập Trụ Tỳ-bà-sa luận, Trung quán luận, Thập nhị môn luận...
Trong bộ luận Tỳ Bà Sa, ngài khen ngợi pháp môn Tịnh-độ như sau:
              Nếu người muốn thành Phật
              Xưng niệm A Di Đà
              Ưng thời vì hiện thân
Nên nay con quy mạng

Do sức nguyện Phật kia
Mười phương chư Bồ-tát
Đến nghe pháp cúng dường
Nên con cúi đầu lễ

Các Bồ-tát cõi ấy
Đầy đủ những tướng hảo
Thân đẹp tự trang nghiêm
Nên con lạy quy y

Chư Bồ-tát Cực Lạc
Mỗi ngày trong ba thời
Cúng dường Phật mười phương
Nên con cúi đầu lạy

Nếu người trồng căn lành
Nghi thì hoa không nở
Kẻ lòng tin thanh tịnh
Hoa nở được thấy Phật

Hiện tại mười phương Phật
Dùng các thứ nhân duyên
Khen công đức Di Đà
Nên con quy mạng lễ

Cõi Cực Lạc nghiêm đẹp
Mầu nhiệm hơn thiên cung
Công đức rất sâu dày
Nên con lễ chân Phật…

Ngài lại sáng tác bộ luận Đại Trí Độ, trong ấy có đoạn văn khai thị về pháp môn Tịnh-độ như sau:

Niệm Phật tam-muội có thể trừ các thứ phiền não và những tội chướng đời trước. Các pháp tam-muội khác, có môn trừ được nghiệp tham dâm, nhưng lại không thể trừ được tập khí giận dữ. Có môn trừ được nghiệp ngu si nhưng lại không thể trừ được nghiệp sân hận và dâm dục. Có môn trừ được tam độc tham sân si nhưng không thể trừ được tội chướng nhiều đời trước.

Tóm lại, môn tam-muội nào cũng chỉ có năng lực hạn chế và riêng biệt, riêng  môn Niệm Phật tam-muội thì phát huy năng lực vô giới hạn, vì có sự gia trì của diệu lực chư Phật  không thể nghĩ bàn. Cho nên, Niệm Phật tam-muội có thể diệt trừ các thứ phiền não và các thứ tội chướng, lại nuôi lớn những phước đức lớn lao, sẵn đủ năng lực cứu độ chúng sanh. Chư vị bồ-tát muốn mau diệt tội chướng, được nhiều phước đức, sớm độ chúng sanh,  thì không chi hơn tu môn Niệm Phật tam-muội.

Về sau, ngài Long Thọ giao phó chánh pháp lại cho tôn giả Ca Na Đề Bà, rồi nhập thiền định mà từ bỏ xác thân phàm tục, để lại một sự nghiệp tâm linh siêu việt không thể nghĩ bàn: tư tưởng Đại thừa.

No comments:

Post a Comment