Blogroll

Thursday, April 10, 2014

GIÁO HÀNH TÍN CHỨNG - THÂN LOAN thánh nhân (Phần 3)




(15)
Qua các lời dạy chân chánh của Đấng Tòan Giác và của các Luận sư, Tổ sư trong pháp môn chúng ta,  tôi thấy rõ rằng, tất cả đều minh chứng Cõi Nước Trong Sạch Thanh Tịnh như là Cõi Chân Thật của Cực Lạc (Cực Lạc Chân Độ).
Những chúng sanh tràn đầy ảo tưởng và nhơ bẩn  thì không thể nào thấy thế giới này đồng nhất với Bản Chất của Phật (Phật Tánh), bởi vì tâm thức của họ bị che lấp bởi tham dục. Vì vậy, kinh Đại Bát Niết Bàn đã ghi:
“Như Lai khẳng định rằng, ngay cả chư Bồ-tát ở địa vị Thập-trụ cũng chỉ thấy một phần rất nhỏ Phật-tánh (Thể Tánh của Phật).
Ngược lại, tôi biết rằng khi đặt chân lên Cõi Miền Thanh Tịnh của Phật, nhất thiết tôi phải được khai thị về Phật-Tánh, và việc ấy tùy thuộc vào sự cải biến tâm linh được điều động bởi năng lực Bản Nguyện A Di Đà.


 (16)

Kinh Đại Bát Niết Bàn còn ghi rằng:
“Trong một tương lai về sau, các chúng sanh sẽ có một thân thể trong sạch, được trang nghiêm rực rỡ bằng vô số công đức, vì họ đạt được sự thấy biết về Phật Tánh.”
Tại sao lại có những  phần thưởng vi diệu  như vậy? Bởi vì, những lời nguyện lớn rộng như đại dương của Đấng Toàn Giác đã tạo ra những kết quả và những phước báo vi diệu được hiện hữu nơi cõi nước kia. Do đó, mới gọi cõi nước ấy là “Cõi Cực Lạc”.
Giữa những lời thệ nguyện bát ngát thẳm sâu như đại hải, có những hệ quả chân thật và những hệ quả tạm thời. Ây là lý do tại sao  khi nói về thể tánh của Cõi Phật, người ta phân định thế nào là thể tánh chân thật, thế nào là thể tánh tạm thời.
          Do vì nguồn căn thực sự của “Bản Nguyện tuyển chọn đặc biệt” đã được minh chứng bởi Cõi Nước Chân Thật của Phật, và cũng để nêu rõ Đức Phật Chân Thật mà kinh Vô Lượng Thọ đã phải nói về “Đức Phật của ánh sáng không giới hạn, vô lượng vô biên” và về “Đức Phật của ánh sáng không bị ngăn ngại”… v…v…
Bản kinh Đại A Di Đà nói:
“Ở giữa hết thảy chư Phật, thì A Di Đà là vị chúa tể!  Ở giữa tất cả các loại ánh sáng, A Di Đà là ánh sáng tối thắng, tối tôn, tối diệu…
Ngài Thiên Thân, tác giả bộ Vãng Sanh Luận đã nói: “Con xin trở về nương tựa nơi Đấng Toàn Giác mà ánh sáng của Ngài chiếu rọi khắp mười phương, không bao giờ bị ngăn ngại...”
Về thể tánh của Cõi Chân Thật, thì bản kinh Vô Lượng Thọ ghi rằng:
“Đó là Cõi Miền của ánh sáng không thể đo lường được, vượt ra ngoài mọi khái niệm của chúng sanh…”
Bản kinh “Vô Lượng Thọ Như Lai Hội” do ngài Bồ-đề Lưu-chi dịch (năm 706), đã chép:
“Cõi Cực Lạc chính là cõi Viên Giác, cõi Chánh Giác, cõi Toàn Giác, Trí Tuệ Viên Mãn”.
Vãng Sanh Luận cũng còn nói:
“Rốt cuộc, cõi Cực Lạc có thể tánh tương tự như vũ trụ không gian: rộng lớn, bao la, dàn trải vô giới hạn, không có bờ mé… Vì đó là cõi của Tâm, tức Chân Tâm (Tâm Chân Thật), cõi của Giác Ngộ Tâm Linh  mà bất cứ khái niệm nào của lý trí nhị nguyên cũng không thể vươn tới được.              
Vắn tắt, có thể nói: “Cõi Cực Lạc chính là cõi của Nam mô A Di Đà Phật, cảnh giới thọ dụng của Danh Hiệu…”

 

(16)

 

Khi tôi trầm tư sâu sắc về Đức Phật và Cõi Nước Chuyển Hóa, tôi mới thấu triệt rằng, đó là đức Phật được diễn tả qua bản kinh Quán Vô Lượng Thọ, trong pháp thiền-quán thứ chín về Chân Thân của Phật.

Cõi Tịnh-độ được quán tưởng theo lời dạy của kinh Quán Vô Lượng Thọ, chính là Cõi Nước Chuyển Hóa mà thôi.  Cõi nước ấy cũng tương tự như Thế Giới Đãi Nọa (thế giới uể oải lười biếng) được nhắc đến qua bản kinh “Bồ-tát Xử Thai Chuyển Thế Kinh” và các văn bản khác: Cõi Nước Chuyển Hóa hoàn toàn tương ứng với Cung Điện Thai Sen hoặc Lâu Đài Nghi Ngờ thường tọa lạc tại Giải Mạn Quốc được trích dẫn từ bản kinh Sức Sống Không Cùng Tận (Vô Lượng Thọ kinh).                      
Thật ra, trong thế giới dơ bẩn này, đa số chúng sanh dẫu có ý thức xấu ác và bất tịnh, vẫn có thể khéo léo thoát khỏi những đường lối lầm lẫn của chín mươi lăm học phái tà kiến, để bước thẳng vào giáo lý đạo Phật, hoặc là giáo lý đầy đủ hoặc là giáo lý khiếm khuyết đôi ba phần - do những cơ duyên tạm thời hoặc do những quyết định dứt khoát.        
Bởi vì, gặp được Đạo Phật Chân Chánh quả là khó khăn biết bao: chúng ta cứ phóng tầm mắt  nhìn quanh, có mấy ai hội đủ nhân duyên hi hữu để vươn tới Đạo Phật Chân Chánh? Trong khi phần đông chúng sanh đều ngoan ngoãn cúi đầu vâng theo những thứ giáo lý tạp nhạp được diễn dịch sai lầm (20) và hầu hết mọi người đều lẩn quẩn miệt mài với những công phu chưa chín tới, những lối thực hành huê dạng, màu mè hình thức như mê đắm công quả, tom góp phước báo, lăng xăng hành thiện, cúng dường bố thí ...v...v...
Phần đông chúng sanh đều ôm ấp những mục tiêu tệ hại như vậy, chỉ vì họ say mê dồn chứa phước báu hữu lậu và tích lũy công hạnh, nên họ muốn đức  Thích Ca Mâu Ni một mực cứ thuyết giảng về sự bòn mót, kiếm chác công đức mà thôi.
Điều này thật dễ hiểu: khi chưa tu tập, người ta có khuynh hướng tom góp tài sản, cất giấu tiền bạc càng ngày phải càng nhiều hơn - khi bước vào ngõ tu hành, người ta vẫn đèo queo cái thói quen cũ bằng cách dồn chứa công đức sao cho ngày một nhiều hơn. Đó là căn bệnh trầm trọng sẵn có của tất cả chúng sanh.
Đức A Di Đà, đấng Toàn Giác, biết bệnh của chúng sanh muôn thuở đều như vậy, nên Ngài quyết tâm chữa lành cho kỳ được, bằng phương thức cải biến tâm linh của chúng sanh một cách triệt để hoàn toàn. Cải biến như thế nào, để giúp chúng sanh thực hiện những bước khởi đầu?
Đó là lý do tại sao Lời Nguyện thứ 19 đã xuất hiện, góp mặt vào cuộc sống chúng ta. “Lời Nguyện mong ước chúng sanh gieo trồng tất cả các loại công đức”, hoặc là “Lúc sắp lâm chung, đức Phật sẽ hiện thân trước mặt”.  Và còn nữa:”Đức Phật hứa sẽ hiện thân để tiếp dẫn qua miền Cực Lạc”, hay là :”ước mong sao mọi người sẽ phát khởi Tâm Chuyên Nhất,  Tâm Thành Khẩn…”
Nguyên văn “Lời Nguyện thứ 19 dược dẫn từ bản kinh Vô Lượng Thọ như sau:
“Khi tôi thành Phật, chúng sanh trong mười phương phát khởi tâm thái giác ngộ (bồ-đề tâm), gieo trồng các loại công đức, và dấy khởi lòng thành khẩn mà ước nguyện sanh về cõi nước tôi, đến lúc lâm chung nếu tôi cùng chư vị thánh chúng chẳng hiện thân trước người ấy để đón rước, thì tôi thề không chấp nhận địa vị Toàn Giác”.
Sự thành tựu lời nguyện này được trích dẫn  từ đoạn kinh văn diễn tả về Ba Cấp Bậc Của Sự Vãng Sanh,  hoặc diễn tả các pháp quán tưởng để được vãng sanh Cực Lạc.  Đó là pháp quán tưởng thứ 14, 15, 16  trong bản kinh Quán Vô Lượng Thọ, đồng thời trình bày Chín Phẩm Vãng Sanh của các vị thượng thiện nhân ở cõi Tinh-độ qua các phương tiện thiền-quán hoặc phi-thiền-quán…



 (17)

Ngược lại,  tổ sư Nguyên Tín, bậc Thầy về Thủ Lăng Nghiêm (le Maitre du Shuryôgon), trong chương “Những Chứng Cứ Về Hiệu Quả của sự Niệm Phật”  đã triển khai đề tài : “Lời Nguyện thứ 18 là Lời Nguyện Chọn Lọc Nhất trong các lời nguyện được tuyển chọn”. 
 Đối với tất cả các vị thiện hữu đang sử dụng những công phu tu tập thiền quán và phi thiền quán  được xiển dương bởi Quán Vô Lượng Thọ Kinh, ngài Nguyên Tín nhấn mạnh tha thiết rằng: những kẻ đa mang đủ loại tội chướng nặng nề, chỉ cần thành khẩn thốt lên: “Nam mô A Di Đà Phật’’ thì tức khắc, bao nhiêu tội chướng liền bị tiêu diệt hoàn toàn, và sẽ cảm nhận một nỗi bình an, hạnh phúc bất tuyệt…
Hỡi những bậc Tăng sỹ cũng như cư sỹ trên thế giới ô nhiễm này, xin quý vị hãy đối diện với chính mình và tự thẩm tra năng lực của bản thân một cách nghiêm túc.
Chỉ có vậy thôi!


(18)
  
Về khía cạnh khác, đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã mở bày Kho Tàng Công Đức của chánh pháp tối thượng - kế tiếp là phần việc của đức A Di Đà, đấng Toàn Giác: để cải biến tâm linh tất cả chúng sanh trong mười phương thế giới ác trược này, đức A Di Đà đã công bố một lời hứa hẹn tương quan đến cứu cánh giải thoát rốt ráo và những nhân tố chân chánh đưa đến cứu cánh tối hậu ấy. Lời hứa hẹn nêu trên, phát khởi từ lòng đại bi, chính là nhằm mục đích dẫn dắt hết thảy chúng sanh tới bến bờ trí giác.
Đại Bi Thệ Nguyện thứ 20 còn gọi là “Lời Nguyện ước mong chúng sanh thường xuyên niệm Phật như là gieo trồng gốc rễ của mọi công đức vô lậu”. Ngoài ra, còn gọi là: “Lời Nguyện bảo đảm chắc chắn vãng sanh bởi chuyên nhất tư tưởng mà nghĩ nhớ đến cõi nước tôi...” (hệ niệm ngã quốc). Và còn gọi là: “đem tâm chí thành, hồi hướng công đức...“  
Nguyên văn Lời Nguyện Thứ 20 là:
Khi tôi thành Phật, tất cả chúng sanh khắp mười phương nghe danh hiệu tôi mà chuyên nhất tư tưởng hướng về cõi nước tôi, gieo trồng Gốc Rễ của tất cả công đức, và đem tâm thành khẩn hồi hướng công đức để vãng sanh trong cõi nước tôi - nếu không có được kết quả như ý  mặc dù đã thực hiện những điều cần thiết, thì tôi thề không chấp nhận địa vị Toàn Giác.”
Bản kinh Vô Lượng Thọ còn đi xa hơn: “Những kẻ nào còn hoài nghi các tri thức đạo lý vừa nêu trên, và chẳng tin tưởng chút gì vào các điều ấy, thì tuy vẫn gieo trồng Gốc Rễ công đức để hy vọng vãng sanh Cực Lạc dù thường đặt lòng tin gắn liền với những khái niệm công đức và tội lỗi - rốt cuộc những kẻ ấy sẽ tái sanh trong Cung Điện Thai Sen nơi biên địa cõi Cực Lạc.”
Hiển nhiên chỉ vì thế, mà tôi biết chắc rằng người ta thực hành một công phu chọn lọc như Niệm Phật mà lại đem kết hợp với một tư tưởng tạp loạn (đem tín tâm pha trộn với tự lực), thì sẽ không thể nào đạt đến Đại Hoan Lạc. Đây là lý do tại sao tổ sư Thiện Đạo nói:
 “Kẻ naò không phát khởi tư tưởng tri ân về sự đoái hoài của Phật đã từng ban phát cho chúng ta biết bao ân đức của sự Vãng Sanh, mà chỉ một mực chăm chú vào việc chất chứa những hành vi tu tập tự lực, đồng thời nổi lên những tư tưởng kiêu ngạo, hoặc mưu đồ kiếm chác danh vọng cùng lợi ích vật chất. Kẻ ấy chắc hẳn bị quay cuồng trong ngục tù bản ngã chật hẹp u mê, y sẽ không có được một người bạn thiết để đồng hành trên bước đường tu tập. Y lấy làm thích thú biết bao bởi vô số phương thức tu tập tự lực, y nào biết rằng chính y đã gây ra chướng ngại cho sự tinh tiến đích thực, nhờ đó mà người ta được tái sanh Tịnh-độ chỉ bởi năng lực của Phật mà thôi (Tha Lực).




(19)
NIỆM PHẬT VÀ CÁC THỜI KỲ CHÁNH PHÁP


Tôi tin tưởng rằng, giáo lý tu tập theo Con Đường Của Các Thánh Nhân là phương tiện hành trì chỉ dành riêng cho các bậc thượng căn vào thời kỳ đức Thích Ca Mâu Ni còn hóa đạo tại thế gian,  đó là giai đoạn của Chánh Pháp Chân Thật (Đúng Đắn) - chứ không thể nào ban cho chúng sanh vào các thời kỳ hánh Pháp Tương Tự hoặc Chánh Pháp Suy Tàn và Chánh Pháp Diệt Tận.
Thời gian đầu tiên đã qua rồi, giáo lý tu tập theo Con Đường Của Bậc Thánh Nhân thì dường như chẳng còn mấy thích ứng với các thời kỳ tiếp theo.
Trái lại, Niệm Phật tức là Đạo Phật Chân Chánh của Tịnh-độ được thực hành vào thời đức Thích Ca còn lưu trụ trên thế gian naỳ, giáo pháp lúc ấy là Chánh Pháp Đúng Đắn, nhưng đặc biệt vẫn còn được thực hành rộng rãi vào các thời đại Chánh Pháp Tương Tự, Chánh Pháp Suy Tàn hoặc Chánh Pháp Diệt Tận.                  
Niệm Phật cũng là sự dìu dắt tràn đầy xót thương mà chư Phật ban cho chúng ta, và là phương tiện hết sức phù hợp với đại đa số chúng sanh trong thời đại xấu ác sẵn đủ năm loại nhiễm ô…
Trong bộ Đại Trí Độ Luận, ngài Long Thọ đã trình bày giáo pháp về “Bốn Lãnh Vực Nương Tựa” (Tứ Y Pháp) như sau:
“Vào lúc sắp sửa bước vào Đại Niết Bàn, đức Phật dặn dò chư vị tỳ-kheo rằng: kể từ nay, các con phải:
Thứ nhất, nương tựa vào Chánh Pháp mà chớ nương tựa vào người thuyết giảng.
Thứ hai, các con hãy nương tựa vào ý nghĩa giáo pháp mà chớ căn cứ vào ngôn ngữ, văn tự.
Thứ ba, các con hãy nương tựa vào Trí Tuệ Chân Thật chứ đừng căn cứ vào cảm nhận của 6 thức.
Thứ tư, các con hãy nương tựa vào những bản kinh có ý nghiã rõ ràng chứ đừng nên căn cứ vào những bản kinh mang ý nghĩa khúc mắc, bí mật và mù mờ. 
Vì vậy cho nên, vào thời đại chánh pháp suy tàn như hiện nay, quý vị tăng sỹ cũng như cư sỹ đều phải thực hành Giáo Pháp được nhắc nhở trong “Bốn Lãnh Vực Nương Tựa” (Tứ Y Pháp).        
Thân Loan tôi căn cứ vào những mục tiêu đúng đắn và xác thực của chư Tổ sư cũng như các bộ luận giái của các thánh hiền thuở xưa, tôi sẽ chứng minh rằng: 
Thánh Đạo, hay Con Đường Tu Tập Của Các Bậc Thông Tuệ, chỉ là giáo lý nhất thời ở vào giai đoạn khởi đầu của đạo Phật - còn Con Đường Trở Về Tịnh-Độ bằng thực hành Niệm Phật, lại là giáo lý quyết định dứt điểm, phù hợp với tất cả các giai đoạn phát triển của đạo Phật, dù ở bất cứ không gian nào, địa phương nào. Tôi cũng quan tâm đến việc phản ứng nghiêm túc đối với những sự diễn dịch sai lầm và cũng muốn chống lại những giáo lý ngọai lai, hỗn tạp trong đạo Phật.
Để có thể phân biệt những thời kỳ khác nhau sau khi Phật Thích Ca niết-bàn, tôi sẽ xác định ranh giới của các thời đại ấy, đâu là thời kỳ Chánh Pháp Đúng Đắn, đâu là thời kỳ Chánh Pháp Tương Tự,  đâu là thời kỳ Chánh Pháp Suy Tàn., Ngài Đạo Xước nói: Để trình bày thời đại nào kinh điển tồn tại trên thế gian, và thơì đại nào kinh điển bị hủy diệt, tôi phải nói rằng: sau khi đức Thích Ca diệt độ, chánh pháp đúng đắn được duy trì trong khỏang 500 năm.
Thời kỳ chánh pháp tương tự kéo dài khoảng một ngàn năm tiếp theo đó. Giai đoạn suy tàn của chánh pháp (mạt pháp) kéo dài khoảng mười ngàn năm. Rồi thì số lượng chúng sanh tu tập theo Phật-pháp sẽ càng ngày càng giảm bớt và tất cả các loại kinh điển đều bị biến mất hoàn toàn. Khi ấy, đấng Thế Tôn Tòan Giác mới xót thương hết thảy chúng sanh bị thiêu đốt bởi khổ não ưu phiền, Ngài sử dụng tuệ nhãn để chọn một bản kinh có khả năng cứu độ tất cả, đó là kinh Vô Lượng Thọ, và Ngài quyết định cho phép bản kinh này lưu trụ trên thế gian khoảng hơn một trăm năm.
Ngài tiếp lời:
Trong bản kinh Vô Lượng Thọ Như Lai Hội,  đức Phật dạy rằng: ”Vào thời mạt pháp, mặc dầu có ức ức chúng sanh tu tập theo chánh pháp của Ta,  nhưng chẳng có một người nào chứng ngộ rốt ráo cả”. Quả thật, chúng ta đang ở vào thời kỳ mạt pháp: đó là thời đại mà cuộc sống bị nhiễm ô bởi năm thứ dơ bẩn (ngũ trược ác thế). Chúng ta không đủ khả năng dù nhỏ bé để có thể tu tập theo bất cứ giáo pháp chân chánh nào của đạo Phật, duy chỉ có Niệm Phật là công phu tu tập dễ dàng mà chúng ta có thể thực hiện nổi…“                   



(20)

Nhờ nương tựa vào kinh điển mà chúng ta có được sự phân biệt thế nào là giáo pháp tạm thời và thế nào là giáo pháp bất biến, xác định - tôi quyết tâm chống lại những thứ giáo lý ngoại lai, hỗn tạp đang hiện hữu trong đạo Phật, và tôi cũng cương quyết phản ứng mạnh mẽ đối với những diễn dịch sai lầm vẫn còn tồn tại rải rác quanh đây.
Về đề tài này, kinh Đại Bát Niết Bàn nói:
“Bất cứ người nào đã quy y Phật, thì hoàn toàn không đặt niềm tin vào bất cứ năng lực thần quyền khác… “
Kinh Đại Tập đưa vấn đề này ra trước các đức Như Lai và được dạy như sau:
”Là đệ tử của Như Lai, nhà ngươi đã học hỏi những giáo lý được kiết tập và muốn thực hiện  trong
đời sống… Nhà ngươi chỉ nên quy y Phật, quy y Pháp, quy y Thánh Hiền Tăng. Đồng thời không quy y ngoại đạo, tà giáo. Không sùng bái các loại chư Thiên. Không hiến mình thờ cúng các loại Ma, Quỷ, Thánh Thần. Không nên mê say bói tóan kiết hung, dâng sao giải hạn, tử vi, phong thủy, xem ngày giờ tốt xấu…

(Nói chung, người niệm Phật thì không giải quyết vấn đề tâm linh bằng bất cứ một phương thức thế gian nào, ngoài việc duy trì công phu sáu chữ: Nam. Mô. A. Di. Đà. Phật) ./.
         




 (21)   LỜI CUỐI CÙNG


Hạnh phúc thay!
Con đã gieo cấy tâm hồn con trên khoảnh đất mơn mởn tươi xanh của Bản Nguyện A Di Đà, và con đã khơi dòng tư tưởng cuồn cuộn chảy vào đại dương của Chánh Pháp siêu việt tư duy và mô tả.
Con nhận biết từ đáy sâu thăm thẳm lòng xót thương bất tận của đấng Toàn Giác và con vô cùng thích thú đón nhận những ân đức vĩ đại đến từ những giáo huấn của chư Sư, chư Tổ. Niềm vui trào dâng đến mức độ tột cùng, và trong lòng con, một mối rung cảm chân thành của sự tri ân đang lớn dần lên.
Chính vì những nguyên do kia, mà con đã thực hiện công cuộc trình bày Đạo Phật Chân Chánh và tập hợp các phần cốt tủy của những giáo lý liên quan đến Niệm Phật Tịnh-Độ.                 
          Bởi vì con đã thâm nhập tận cùng những tầng sâu hun hút của ân đức Niệm Phật, nên con không hề quan tâm đến những mũi dùi phê phán hoặc thái độ chế riễu của người đời. Mặt khác, nếu có một người nào gặp cơ hội tiếp xúc với những bản văn này, mà chấp nhận với niềm tin cậy, hoặc còn nghi ngờ chút ít,  hoặc miễn cưỡng lắng nghe, thì nhờ những nhân duyên hi hữu này, một ngaỳ kia tâm hồn y sẽ đơm hoa nẩy nụ khiến cho Lòng Tin Thanh Tịnh sẽ bừng sáng ở trong y do năng lực Bản Nguyện A Di Đà - và rồi, quả đức Vi Diệu sẽ hiển hiện ngay nơi tự thân người ấy  trong Cõi Miền Cực Lạc.
Ngài Đạo Xước viết trong “An Lạc Tập, phần I” như thế này: “Con xin tập hợp nơi đây những lời dạy chân thật của Phật và Thầy, Tổ - chỉ mong giúp đỡ mọi người đạt được ý nguyện vãng sanh Cực Lạc”
Ước vọng của con, cũng như chí hướng của các bậc tiền nhân, là trở thành người dẫn dắt những kẻ hậu sanh, và dĩ nhiên người thời nay cũng có thể rút tỉa được một vài lợi ích khi tiếp nhận những lời chỉ bày của những người đi trước. Mong sao, thời đại nào cũng có sự tiếp nối liên tục cho đến mãi mãi về sau. Và nhờ sự tiếp nối vô tận này, mà đại dương khổ não của Sanh Tử  sẽ phải cạn khô.
Chúng ta đang ở vào thời kỳ suy tàn của chánh pháp (mạt pháp), mong sao các bậc Tăng sỹ cũng như cư sỹ, hãy đem cả lòng tin mà trân trọng và ngưỡng mộ giáo lý Niệm Phật này. Để rồi, quyết liệt chối bỏ mọi thứ ô nhiễm của thế gian và xác nhận danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật mới là máu thịt và hơi thở của chính mình.
          Để kết thúc, xin trích dẫn một đoạn thơ từ bản kinh Hoa Nghiêm (le Soutra de l’Ornementation Fleurie) :
Kẻ kia rất mực chúng sanh
Thấy vị bồ-tát tu hành siêng năng
Dấy lên tâm niệm oán hờn
Hoặc là thù nghịch như từng nợ nhau
Người này rất mực thanh cao
Phát sanh tâm niệm yêu thương tràn trề
Trước sau Ngài vẫn từ bi
Chẳng hề phân biệt kẻ kia người này
Dang tay
bảo bọc cuộc đời
Như mưa
                rưới xuống cỏ cây chan hòa

                   Thân Loan


No comments:

Post a Comment